NHỮNG CÂY CẦU KỶ NIỆM

 

Huỳnh Công Ân

Qua cầu dỡ nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu

(Ca dao)

Tin cây cầu Gành bị gãy hai nhịp làm con tim của những người sinh trưởng tại Biên Hòa hay những ai từng làm việc tại thủ phủ miền Đông này không tránh khỏi đau nhói. Tuy rằng ba tháng sau người ta đã xây lại một cây cầu mới để tái lập tuyến đường xe lửa Bắc Nam nhưng cây cầu mới 3 nhịp không thế nào thay thế hình ảnh cây cầu cũ 4 nhịp có hằng trăm năm trong ký ức của người dân Biên Hòa.

Tôi đã duyên gắn bó với Biên Hòa 6 năm trong nghiệp văn cũng như nghiệp võ. Tôi từng dạy học tại trường trung học Ngô Quyền và cũng từng phụ trách an ninh cho một trong những cây cầu quan trọng cúa Biên Hòa, cửa ngỏ vào thủ đô Sài Gòn: cầu Đồng Nai.

Năm 1972, khi tôi trở lại quân đội và phục vụ ở tiểu khu Biên Hòa thì tôi được cử làm đại đội phó một đại đội địa phương quân trấn giữ cầu Đồng Nai. Lúc đó, 3 cây cầu chiến lược nối liền Biên Hòa với thủ đô Sài Gòn cầu Đồng Nai nằm trên xa lộ Sài Gòn Biên Hòa, cầu Gành trên quốc lộ 1 và cầu Hóa An hay cầu Mới trên xa lộ Đại Hàn. Cầu Đồng Nai do đại đội 3/463, đại đội trưởng là đại úy Nhuận, trấn đóng. Cầu Gành do đại đội 3/363, đại đội trưởng là đại úy Tốt, phụ trách an ninh. Cầu Hóa An do đại đội 3/362. Đại đội trưởng là đại úy Sang, bảo vệ.

Từ Sài Gòn lên bằng xa lộ, trước khi lên cầu Đồng Nai, người ta sẽ đi ngang ngã ba Tân Vạn bên tay trái thuộc tỉnh Biên Hòa Long Bình thuộc tỉnh Gia Định bên tay phải. Qua khỏi cầu thì người ta sẽ thấy Bộ Chỉ Huy Vùng 3 Sông Ngòi của Hải Quân bên phải và xa hơn về bên trái hãng giấy Cogido. Sau khi đổ dốc , người ta gặp ngã ba Vũng Tàu nếu rẽ phải ở đó người ta sẽ ở trên quốc lộ 15 dẫn đi Long Thành, Rịa và Vũng Tàu.

Nếu đi lên Biên Hòa bằng quốc lộ 1, người ta qua cây cầu sât lâu đời nhất là cầu Gành từ đó người ta nhìn thấy cù lao Phố phia dưới. Sàn cầu lót ván nên khi xe cộ chạy qua người ta nghe rầm rầm nhất là nếu đó xe lửa.

Cầu Hóa An được xây dựng sau cùng khi xa lộ vòng đai Đại Hàn nên mới có thêm tên cầu Mới.

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan”

Tôi chỉ làmlính thúhai năm ở cầu Đồng Nai (1972-1973) nhưng có nhiều kỷ niệm gắn bó với cây cầu chiến lược này. Những đêm đi đốc canh cho tôi thấy sự chễnh mãng, thiếu cảnh giác của lính tráng mình, nếu địch quân biết sơ hở này thì cây cầu này đã bị đánh sập dễ dàng. Ban ngày tôi thường bắt lính dùng ca chở tôi đi quan sát quanh trên sông vùng gần cầu hay đi vào Long Bình bên phải cầu để dò la tình hình an ninh. Tôi theo dõi nhứng xuồng rà tôm gần cầu đáng nghi của những tên đặc công thám sát tình trạng bố phòng của cầu. Tôi cũng biết những chủ lò gạch trong xã những thành phần “hai mang”. Ban ngày họ làm ăn vẻ lương thiện nhưng ban đêm hoạt động tiếp tế cho địch quân, tuy nhiên tôi chưa bằng chứng để bắt giữ họ.

Thỉnh thoảng tôi dẫn một trung đội lính theo xe đi hộ tống các đoàn quân xa đi ngang lãnh thổ tiểu khu Biên Hòa đến ngã ba Dầu Giây hay Phú Mỹ, hoặc chở tân binh đi thụ huấn quân trường Vạn Kiếp ở Bà Rịa hoặc đi lãnh đạn pháo binh ở căn cứ Long Bình hay thành Tuy Hạ hoặc đi tiếp tế cho chi khu Tân Uyên.

Lúc rãnh rỗi, tôi cùng các quan chung đơn vị đánh bi da, uống bia ở câu lạc bộ đại đội sát bờ sông hay sang nhậu nhẹt giao hữu với các quan ở hai đại đội bạn giữ hai cây cầu kia.

Mùa thi Tài hay vào lớp 6 Ngô Quyền tôi được cắt cử dẫn lính giữ an ninh trường thi. Những âm mưu quăng bài giải vào phòng thi bị tôi bẻ gãy.

Trong hai năm tôi ở cầu Đồng Nai không xảy ra một vụ tấn công nào của VC, trừ một tai nạn lựu đạn làm một lính gác tử thương và một lính khác bị nát đôi chân.

Đầu năm 1973, sau hiệp định Ba Lê, với trách nhiệm là một đại đội phó chính trị tôi được đại úy đại đội trưởng giao công tác phân tích bản văn hiệp định cho binh sĩ trong đại đội am hiểu và truyền xuống cho họ biết nhiệm vụ một người lính trong tình hình mới. Và để cho tôi thể hoàn thành nhiệm vụ một cán bộ chiến tranh chính trị của đơn vị, tiểu khu Biên Hòa cử tôi đi học một khóa học ở trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Nhưng khóa học chưa khai giảng thì tôi nhận được sự vu lệnh biệt phái trở về Bộ Giáo Dục và tôi trở lại trường Ngô Quyền dạy học.

Tuy thời gian mặc áo lính ở Biên Hòa giữa mùa chinh chiến, ngắn ngũi và không phải xông pha trong lằn tên mũi đạn như lúc ở sư đoàn 9 bộ binh miền tây những năm 68-69, nhưng tôi cũng không thẹn lòng khi đã làm tròn trách nhiệm của một người lính ở mặt trận miền Đông.

Giờ đây, mỗi khi lên Biên Hòa họp mặt cùng các em cựu học sinh Ngô Quyền, lúc đi ngang qua các cây cầu này, những kỷ niệm xưa vùng sống lại trong lòng tôi. Những chiến hữu từng sát cánh với tôi trong nhiệm vụ giữ cho cây cầu Đồng Nai đứng vững ở Biên Hòa thời chinh chiến như : đại úy Nhuận, trung úy Phong, trung úy Hoàng, thiếu úy Phước, thiếu úy Tuấn, thiếu úy Ngọc, thượng sĩ Lộc, trung sĩ Thêm, hạ sĩ Lý… còn nhiều nữa mà với thời gian tôi không còn nhớ tên. Giờ đây, ai còn ai mất, ai ở đâu tôi không .

Khi tôi đi cải tạo về, tôi lên nhà đại úy Nhuận ở xã Long Bình thăm nhưng chỉ gặp vợ của ông ấy. Tuy nhiên tôi cũng vui khi vợ ông cho biết ông đã được thả về. Ít lâu sau. Ông xuống Sài Gòn thăm tôi. Sau đó tôi ợt biên tin rằng gia đình ông đã sang Mtheo diện HO.

Trung úy Phong sau đổi về phòng 3 tiểu khu, lên đại úy. Sau 75, tôi nghe nói anh theo gia đình bên vợ di tản qua Thụy Sĩ.

Trung úy Hoàng về sau qua không quân nhưng không được đi học ở Mỹ vì lịch có cha đi tập kết ra Bắc. Sau 75, Hoàng đến nhà thăm tôi cho biết đang làm việc trong ngành điện ảnh của chế độ mới. Tôi không anh bị đi tù cải tạo hay không.

lần về quê ở Bình Dương năm 1975 tôi gặp trung sĩ Thêm, người gốc Miên đang làm phu khuân vác.

Một hôm đang ở Canada, hạ sĩ Lý gọi cho tôi nói nhờ website của hôi Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền Biên Hòa biết số điện thoại của tôi. Anh cho biết hiện đang bị những bệnh của tuổi già. Tôi thầm cầu mong anh vẫn an khang.

Ôi “một thời chinh chiến điêu linh”! Tỉnh Biên Hòa của chúng ta những cây cầu thân yêu từng đứng hiên ngang trong phong ba, bão táp trải qua bao đau khổ nhục nhằn . Nhất là tình người Biên Hòa vẫn còn đó  ở trong nước hay hải ngoại.

 

Đầu thu năm 2016