Có ai
về xứ Bưởi
Tùy bút Huỳnh Công Ân
“Thương tặng hương hồn em tôi và
các cánh chim oai hùng từng vẫy vùng trên ṿm trời Biên Ḥa”
Biên
Ḥa xứ bưởi thanh thanh
Có cô
bán bưởi xinh xinh trữ t́nh
(Ca dao)
Tôi được thuyên
chuyển về trường trung học Ngô Quyền, Biên
Ḥa năm tôi 25 tuổi sau 4 năm dạy học
ở trường trung học Vĩnh B́nh, Trà Vinh . Vốn
trưởng thành ở thủ đô Sài G̣n, lân cận
với tỉnh Biên Ḥa nên dù trước khi nhận
nhiệm sở tôi chưa lần nào đặt chân tới
Biên Ḥa nhưng tôi vẫn được nghe nói nhiều
về tỉnh này. Tôi được biết Biên Ḥa là cửa ngỏ phía
đông của thủ đô Sài G̣n, nơi
đặt bản doanh của Quân Đoàn 3, Sư Đoàn 3
Không Quân và căn cứ Long B́nh. Nơi đây là chỗ
địa linh nhân kiệt nơi sản
sinh những nhân tài ở nhiều lănh vực, quân sự có
tướng Đỗ Cao Trí, văn hóa có B́nh Nguyên Lộc,
Lương Văn Lựu, chính trị có Nguyễn Ngọc
Huy…Nhưng Biên Ḥa được biết nhiều với
cái tên xứ Bưởi v́ bưởi là một
đặc sản nổi tiếng ngon ngọt của Biên
Ḥa.
Từ 1969 đến
1975, trong thời gian 6 năm
phục vụ ở Biên Ḥa của tôi dù ở
cương vị thầy giáo hay quân nhân, tôi cũng có
nhiều kỷ niệm không thể quên
được.
Ông hiệu trưởng
Phạm Đức Bảo thông cảm với các giáo sư
có nhà ở Sài G̣n nên thường cho
xếp 15 giờ dạy của giáo su đệ nhị
cấp vào hai ngày liên tiếp để họ có thời
gian rộng răi dạy trường tư hay làm công việc
khác ở Sài G̣n để bù đấp vào số
lương cố định của công chức
thời mà mọi người đổ xô đi
làm sở Mỹ, lương cao mà chỉ cần biết
chút đỉnh tiếng Anh. Tôi dạy hai ngày đầu
tuần, bốn ngày c̣n lại tôi có giờ ở một số
trường tư hay vài cours luyện thi ở Sài G̣n . Đêm thứ hai, tôi ở lai Biên Ḥa, ngủ nhà
người anh họ, làm quân cảnh không
quân, gần ga xe lửa. Anh tôi vừ a có
đứa con đầu ḷng nên chúng tôi thấy thắm thía
câu “đêm về nghe con khóc vui triền miên” trong bản
nhạc “Ngày hạnh phúc” của Lam
Phương. Lúc đầu tôi đi chiếc Honda
67 sau đó là chiếc lambretta hai bánh từ Sài G̣n theo xa
lộ Biên Ḥa, rẽ ngă ba Tân Vạn rồi qua cầu Gành
vào Biên Ḥa. Về sau, v́ hàng ngày chứng kiến những tai
nạn lưu thông thảm khốc
trên xa lộ, tôi lạnh cẳng nên về sau từ nhà tôi
đi xe ôm ra ga lấy xe lửa lên Biên Ḥa. Năm 1971, em tôi
về lái trực thăng tại sư
đoàn 3 không quân, mướn nhà trong một con hẻm
gần trường Ngô Quyền ở với
vợ và con nhỏ nên đêm ở lại Biên Ḥa tôi ngủ
ở đó. Tôi lại được vui triền miên mỗi đêm thứ hai với
tiếng khóc của đứa cháu ruột .
V́ là một sĩ quan
biệt phái, nên cuối năm 1971 khi dính liếu vào một
việc xô xát, tôi bị kỷ luật và bị trả
về quân đội. Người ta cho tôi một ân huệ bằng
cách đưa ra một danh sách các đơn vị để
tôi và người bạn tôi , làm văn pḥng, ở
trường Petrus Kư, dính chung một vụ,
lựa chọn. Tôi không do dự chọn ngay tiểu khu Biên
Ḥa, c̣n bạn tôi chọn tiểu khu Châu Đốc. Đúng
là một sự lựa chọn định mệnh.
Bạn tôi về Châu Đốc, nơi mà trước khi
biệt phái, anh ta là tùy viên của đại
tá tỉnh trưởng. Rủi cho anh, lần này trở
lại Châu Đốc th́ thầy cũ của anh đă
thuyên chuyển về làm chỉ huy trưởng trung tâm huấn
luyện Quang Trung, nên anh bị ông tỉnh trưởng
mới đưa ra nắm một đại đội
địa phương quân. Vài tháng sau, tôi bà ng ḥang khi
nghe tin anh tử trận
khi dẫn quân lục soát trên núi Sam . Nếu tôi
chấp thuận theo bạn tôi
về Châu Đốc th́ không biết tôi sẽ ra
sao. Về Biên Ḥa tôi được
ông Bảo gởi gắm với tiểu khu nên tôi
được đưa về đại đội canh
giữ cầu Đồng Nai, ngoài xa lộ Biên Ḥa.
Hai
năm ở đại đội 3/463 giữ cầu
Đồng Nai ghi lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Lúc
mới về tôi làm trung đội trưởng, một
thời gian ngắn sau trung úy Phong, đại đội
phó được thuyên chuyển về pḥng 3
tiểu khu, tôi được đề cử lên
thay thế. Nhiệm vụ chính của
đại đội là giữ an
ninh cây cầu chiến lược
này. Tuy nhiên , thỉnh
thoảng đại đội tôi nhận
lệnh tiểu khu cử một sĩ quan
dẫn một trung đội đi hộ tống
các đoàn quân xa đi qua lănh thổ
tiểu khu. Ngoài lúc công tác, các sĩ quan trong đại
đội : đại úy Nhuận, đại đội
trưởng, tôi, trung úy Ḥang, thiếu úy Tuấn,
thiếu úy Phước, chuẩn úy Lộc thường
tập trung ở câu lạc bộ đánh bi da. Trong
đại đội có hai tay cao thủ bi da là đại
úy đại đội trưởng và hạ sĩ Lư truyền tin. Tôi thuộc loại tay mơ nhưng nhờ hạ sĩ Lư
chỉ dẫn nên thường hạ được hai tay
mơ khác là thiếu úy Tuấn và chuẩn úy Lộc và
thắng độ, uống bia khỏi mất tiền.
Đại úy Nhuận có kinh
doanh một ḷ gạch ở trong xă Long B́nh, bên
cạnh cầu Đồng Nai, nên thường qua lại
với các ông chủ ḷ gạch khác,
v́ vậy chúng tôi cũng thường theo
ông đi ăn giỗ ở các nhà quen của ông.
Đại đội tôi
chia quân đóng hai bên đầu cầu, phia đầu
cầu hướng Sài G̣n có mật hiệu truyền tin Sài G̣n và phía đầu cầu
bên kia mang mật hiệu Cogido (tên một hăng giấy
gần đó). Phía dưới cầu chúng tôi có
đường đi từ bên này cầu qua bên kia,
ngang qua các chân cầu dùng
làm chốt gác dưới sông. Phia Cogido, đối diện
với nơi đóng quân của chúng tôi lá bộ Chi huy vùng 3 sông ng̣i của Hải Quân.
Các sĩ quan hải quân bay bướm thường tổ
chức party khiêu vũ và hay
mời đám sĩ quan chúng tôi tham gia. Chúng tôi cón
được tăng cường một chiếc
giang thuyền lúc nào cũng đậu phia dưới
cầu.
Kỷ
niệm đau buồn nhất trong thời gian tôi phục
vụ ở đại đội giữ cầu
Đồng Nai là việc tôi mất người em trai phi
công nói ở trên. Một buổi sáng
đang ngồi ở văn pḥng đại đội, tôi
nhận được điện thoại từ lính gác
cổng trại cho biết có một bà lớn tuổi
xưng là bác gái của tôi muốn vào gặp tôi. Linh tính báo cho tôi biết tôi sẽ có một tin
chẵng lành. Tôi lật đật lấy xe lambretta chạy lên cổng trại. Bác
gái tôi mếu máo khóc cho tôi biết em tôi
đă mất tích sau khi chiếc trực thâng nó lái bị
bắn hạ ở mặt trận An Lộc. Tôi c̣n nhớ
đó là ngày 21-6-1972. Bác tôi cho biết, ba
tôi từ Sài G̣n lên đang ở nhà bác tôi chờ tôi
để cùng vào phi đoàn của em tôi trong phi
trường Biên Ḥa để hỏi thăm tin tức. Khi
gặp tôi, ba cho tôi cho biết hồi sáng sớm
, thiếu tá Thiểm, bạn tôi làm ở trung tâm
hành quân không quân Tân Sơn Nhất nghe báo cáo một chiếc
trực thăng UH1 đang thi hành công tác hộ tống
một hợp đoàn trực thăng đổ quân xuống
An Lộc bị bắn hạ và hoa tiêu chính của
chiếc trực thăng này là thiếu úy Huỳnh Công Quan,
em trai tôi. Thiểm vội điện
thoại về nhà anh và nhờ em gái anh chạy vô nhà tôi
ở gần đó báo tin. Ba tôi vội đi xe lô lên Biên Ḥa ngay.
Tôi
chở ba tôi vào phi trường biên Ḥa và vào cổng dễ
dàng v́ anh họ tôi là trưởng toán quân cảnh tại
đó. Anh tôi hướng dẫn tôi vào
doanh trại phi đ̣àn của em tôi. Tôi trông
thấy chiếc xe Honda 66, với chiếc guidon cao của
em tôi c̣n dựng trong sân trướ c phi đoàn
mà nước mắt chực tuôn ra. Sĩ quan
trực phi đoàn ân cần
nhưng không dấu được vẻ ái ngại khi
tiếp chúng tôi. Anh mời ba tôi vào nắm
nghỉ trên một chiếc giường nệm phía trong và
tôi ngồi với anh ở văn pḥng. Anh
kể với tôi rằng; sáng nay Quan lái chiếc gunship với copilot lá thiếu úy
Ẩn cùng chiếc gunship thứ hai hộ tống
một hợp đoàn trực thăng của phi
đoàn đổ quân xuống An Lộc. Khi tới suối
Tàu Ô, có lẻ thấy hết nguy hiểm cho
hợp đoàn nên Quan quay trực thăng lại và bị
trúng pḥng không Việt cộng tại đó. Máy bay Quan
rơi xuống đất bốc cháy, chiếc thứ hai
đáp xuống tiếp cứu, chỉ t́m thấy phi công
phụ, cơ khí viên phi hành
và xạ thủ đại liên mà không thấy Quan. Chiếc
thứ hai này cũng bị trúng đạn Việt cộng
nhưng ráng bay đi vá
đáp xuống một đồn địa phương
quân gần đó trước khi toàn bộ phi hành đoàn
được một trực thăng khác đến
tải thương về bệnh viện Cộng Ḥa.
Viên sĩ quan trực phi
đoàn an ủi tôi: hợp
đoàn c̣n đang công tác và nhân tiện t́m kiếm Quan, bác và
anh ráng chờ tới chiều hợp đoàn về
để biết tin tức về Quan. Nhưng
chiều đến, khi tất cả trực thâng của
hợp đ̣an lân lượt đáp xuống băi, những
chiến sĩ không quân trong bộ
combinaison đen, buồn bả đi ngang chúng tôi , gục
đầu xuống sau khi chào . Tôi không c̣n
và chắc vĩnh viễn không c̣n trông thấy dáng cao
gầy của em tôi nữa. Lần
này tôi không c̣n cầm được nước mắt
nữa.
Hôm sau ba vợ của Quan,
hành nghề taxi, buốn bă chở tôi lên bệnh viện
Cộng Ḥa thăm thiếu úy Ẩn đang năm
điều trị tại đây để hỏi thăm
tin tức về em tôi. Ẩn kể lại rằng khi máy
bay trúng đạn, động cơ tắt ngấm, Quan
c̣n b́nh tỉnh chỉ chỗ trống dưới
đất nói với Ẩn sẽ để máy bay đáp
auto(đáp không động cơ mà bằng trớn của
cánh quạt) xuống đó. Khi máy bay chạm đất,
lật ngang và bốc cháy th́ Ẩn bị
ngất.Khi các đồng đội ở chiếc
gunship thứ hai đén tiếp cứu, Ẩn tỉnh
dậy nh́n sang ghế của Quan th́ thấy dây an toàn đă
mở ra, nhưng không ai thấy Quan ở đâu
cả. Ẩn cho biết thêm ngoài Quan
bị mất tích, trong ba người c̣n lại thị anh
trung sĩ cơ khí viên phi hành bị phỏng nặng đă
chết ở bệnh viện. Trước khi tôi
từ giă ra về, Ẩn nắm tay tôi
nói: anh ráng kiếm Quan, em tin Quan c̣n sống.
Cũng v́ lời nói của
Ẩn, ngày hôm sau tôi quyết định xin theo phi đoàn của Quan, đang tham gia
chiến trường An Lộc để t́m em tôi. Tôi lận khẩu colt 45 vào lưng quần
đến xin phép đại úy đại đội
trưởng để vào phi trường. Đại
Úy Nhuận nói: ông mang theo súng
làm ǵ, chiến trường An Lộc lớn như
vậy, một khẩu colt nhỏ này làm được ǵ.
Tôi không trả lời ông mà nhủ thầm để tôi
tự xử khi lọt váo tay Việt
cộng.
Vào phi đoàn tôi
được cho theo chiếc
gunship của Quan mập (để phân biệt với Quan
ốm hay Quan Huỳnh là em tôi). Quan mập
là bạn thân của em tôi và nổi tiếng gan dạ trong
phi đoàn. Vơ Quan mập
bán trong câu lạc bộ của phi đoàn. Quan mập nói
với tôi: anh đừng lo, hể em thấy gương
cấp cứu của Quan rọi lên th́ bất cứ giá nào
em cũng đáp xuống cứu nó. Cả ngày hôm đó, tôi
tham dự rất nhiều chuyến bay lên, đáp xuống
căn cứ Lai Khê của Quan mập để bay công tác
yểm trợ đổ quân, hay tiếp tế cho một
cuộc hành quân khổng lồ giải tỏa An Lộc
của quân đội ta và đồng minh. Nhưng mục đích t́m em tôi đă không thành,
không một dấu vết ǵ của em tôi trong ṿng lửa
đạn mịt mù.
Sau hiệp định
ngưng bắn Ba Lê, tôi nghe nói mỗi lần đi
công tác , khi bay ngang quốc lộ 13, trông thấy lính
Việt cộng đi nghênh ngang trên đường, Quan
mập bất chấp lệnh ngưng bắn, xả súng
bắn rượt bọn Việt cộng chạy trối
chết. Sau cùng, tôi lại
nhận thêm một tin buồn, Quan mập tử trận
ngay trên buồng lái trong một chuyến công tác. Quan ốm
đên nợ nước để lại người vợ
trẻ 21 tuổi một con và đang mang thai đứa
thứ hai. C̣n Quan mập cũng hy sinh v́ nước
để lại một người vợ trẻ mà tôi
không biết có lưu lại ḍng máu oai hùng của
người phi công mà cũng như em tôi sớm chấm
dứt cuộc chơi ở tuổi 24. Ôi! Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Cuối
năm 1973, tôi làm đơn xin tái biệt phái về bộ
giáo dục và được chấp thuận. Lúc
đó, ngành giáo
dục chủ trương tản quyền, nên thay
v́ về thẳng trường Ngô Quyền tôi trfnh
diện ở Sở Học Chánh Biên Ḥa, (sau là Ty
Giáo Dục Biên Ḥa). Tôi được
tạm cử làm việc ở pḥng Học Vụ mà chủ
sự là ông Lê Hồng Sanh. Đầu
niên khóa 74-75, tôi xin về trường Ngô Quyền dạy
lại.
Ở trường Ngô
Quyền, tôi t́m được mối giao t́nh thân
hửu với các giáo sư đồng nghiệp, cùng
ngày dạy , nhưng với các vị dạy khác
ngày có khi tôi chỉ biết tên đề trên thời khóa
biểu mà không có dịp gặp mặt. Lúc đó
tôi thuộc nhóm giáo sư trẻ nên chơi thân với các
anh Nguyễn Phi Long, dạy toán (hiện ở Texas
), Tô Văn Phú, dạy Vạn
vật (đă mất), Trần Văn Phúc,
dạy sử địa (đă mất), Trần
Thái Hùng, dạy toán (hiện ở Việt
Nam), Trần Vân Kỷ, dạy toán…Nhưng thỉnh
thoảng, trong đêm ở lại Biên Ḥa tôi đến nhà
trọ của anh Lê Quư Thể xem anh và các bạn
đồng nghiệp khác xoa mạc chược. Sau này , tôi tận dụng đêm ở
lại để dạy vài giờ toán cho các cours luyện
thi ban đêm của anh Nguyễn Thành Dũng ở
trường Nguyễn Du.
Dù
hơn 37 năm đă qua, những kỷ niệm ở Biên
Ḥa, dù đẹp hoặc không hay, dù vui hay buồn vẫn
tồn tại trong kư ức của tôi. Những
bữa ăn trưa ngon miệng với Trần Thái
Hùng ở quán Thu Hà hay quán b́nh Dân, những đêm cùng các
bạn đồng ngũ đi t́m hoa khôi Dốc
Sơi, lần nhậu nhẹt sinh ấu đả
ở quán nhậu của ông thượng
sĩ trung tâm quản trị trung ương ở
xă Tân Vạn mà tôi chạy về đại
đội dẫn lính đến uy hiếp tru sở xă,
những tối vào phi trương Biên Ḥa xem vũ sexy
ở các câu lạc bộ Mỹ…tưởng chừng
mới xảy ra không lâu.
Những địa
danh: cù lao Phố, ngả ba Vườn Mít, ngă ba Tam
Hiệp,ngả ba Tân Vạn, công trường Sông
Phố…ba cây cầu: cầu Gành , cầu
Đồng Nai, cầu Hóa An, các yếu điểm quân
sự hay hành chánh: phi trường, ṭa tỉnh, tiểu khu
…là những nơi tôi từng lui tới và nhất là
trường trung học Ngô Quyền, nơi mà t́nh
thầy tṛ năy nở và kéo dài đến ngày hôm nay dù
thầy tṛ đều đầu bạc như nhau.
Có ai về xứ
Bưởi cho tôi nhắn gởi nỗi niềm của
một thầy giáo trẻ, một anh lính ba gai ngày nào
của Biên Ḥa nay đă ngót nghét ở độ
tuổi”thất thập cổ lai hy” vẫn thương
nhớ vùng đất thân yêu có con sông Đồng Nai
hiền ḥa, có ngọn núi Bửu Long thơ
mộng và nhất là có những cô Bắc kỳ
cũng như Nam kỳ nho nhỏ đáng yêu .
Montreal , đầu mùa tuyết
rơi 2013,
Huỳnh Công Ân