Chuyến Vượt Biên Kinh Hoàng
Phạm Thị Duyên
(Lời tác giả: Xin chân thành gửi
đến anh Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy
Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa, sự biết ơn sâu xa
đă khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và
nhiệt t́nh giúp tôi hoàn tất viết lại những ḍng
hồi kư đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi
nhiều phép lạ mầu nhiệm này.)
o0o
Cuộc đời chúng ta có
những điều trôi qua, rồi tan biến như
cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều măi
măi in đậm trong kư ức, dù có muốn quên cũng không
thể nào quên được. Đối với tôi,
một trong những điều không thể nào quên và
cũng là món nợ không bao giờ trả được,
dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng
nữa!
Câu chuyện xảy ra đă hơn
ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi
may mắn được chứng nghiệm trong chuyến
đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả,
với nhiều biến cố hăi hùng và kinh dị. Nếu
như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng
Đế, Trời, Phật cứu vớt th́ 137
người đă cùng chết trong ḷng đại
dương trên bước đường đi t́m «Tự
Do»
Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân
nhân là anh Nguyễn Vinh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc
Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy
Dù Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa bảo trợ cho
tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ.
Có lẽ v́ đột ngột, nên
tôi đă khóc suốt đêm và không thể nào ngủ
được. Tâm trạng khác hẳn với những lần
đi trước. Chưa ra đi mà
trong ḷng đă tràn dâng niềm thương nhớ những
người thân yêu trong gia đ́nh.
Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23 tháng 9 năm 1984,
tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện
cầu cho chuyến đi được b́nh an, may mắn,
tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là
đừng gặp hải tặc. Có như
thế tôi mới có thể giúp được gia đ́nh
thoát được cuộc sống bế tắc, khó
khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức
khoẻ, b́nh an, may mắn đến cho
bố tôi đă già yếu, bệnh tật, cùng các anh
chị em và một người tôi gọi là Cô đang
sống đơn chiếc (đúng ra là D́ v́ là em ruột của
mẹ tôi). Cô đă đùm bọc, giúp đỡ gia đ́nh
chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất
ngờ ra đi v́ quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai
đen tối của một gia đ́nh mà hầu hết là
quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam
Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975.
Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm
một lời nguyện cầu: Tôi sẽ tái ngộ
một «Thiên Thần» đang chờ đợi tôi
với một tấm ḷng trong sáng và cao quư.
Lúc 3giờ 45 sáng.Tôi đánh
thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp
mắt được một chút. Tôi
cố giữ thật b́nh tĩnh chào từ giă cô để
cho cô được yên tâm. Trong gia đ́nh và bà con thân
thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là
người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà
chuyến đi này lành th́ ít, nhưng dữ th́ quá nhiều
không thể nào lường được. Ngoài
ra, cần phải giữ bí mật v́ sơ xuất sẽ
gặp những điều nguy hiểm có thể xảy
ra.
Đúng 4:00 giờ sáng, nh́n qua khe cửa sổ,
tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy
chớp đi, chớp lại bốn lần trước
cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đă được
cho biết trước: Có người trong nhóm tổ
chức sẽ đến đón tôi.
Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng
mở cửa. Tay ôm
một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô,
một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia
đ́nh, một quyển kinh loại bỏ túi «Bạch Y
Thần Chú» do bác tôi cho. Bác căn dặn phải
thường xuyên khấn niệm để cầu xin b́nh
an; và một sợi dây chuyền có h́nh con chim Đại
Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi
từ lâu. Tôi luôn mang theo trong
người v́ biết người ấy luôn luôn cầu
nguyện cho tôi được may mắn. Đối
với tôi, đó cũng là một biểu tượng
“thần thoại. “Tôi sẽ được chim
Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ
ước.Tôi cũng bỏ theo một
b́nh nước nhỏ, tuy rằng, người của
tổ chức dặn đừng mang theo ǵ hết v́
họ đă chuẩn bị tất cả đâu vào đó
rồi.
Ngồi sau lưng người lái
Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo
sợ. Ngoái cổ nh́n
lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo
gần ngă ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài g̣n. Giờ này hầu như mọi người
đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong
nước mắt căn nhà mà gia đ́nh tôi nương náu
gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đă
đưa cả gia đ́nh về sống, sau khi trả
lại căn nhà do chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa
cấp cho công chức chỉ trước biến cố
30/04/1975 vài tháng. Nếu c̣n tiếp tục ở lại
căn nhà đó th́ không biết gia đ́nh tôi sẽ gặp
khó khăn biết chừng nào, khi người ta
đến tiếp thu và yêu cầu gia
đ́nh tôi phải ra khỏi trong ṿng hai mươi bốn
giờ.
Tài xế Honda chở tôi ra bến xe
miền Tây. Tại đây có một ngựi đàn ông
đội nón đen đă đứng chờ sẵn, ông ta
trao vé xe đ̣ đă mua từ
trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi
đến Mỹ Tho, tôi được một
người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến
nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời
đă tới trước cùng ngồi ăn
với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ
cùng đi chung chuyến vượt biên
với tôi.
Sau khi ăn trưa xong, tất cả
được mời lên xe Lambretta ba
bánh để chở ra bến đ̣ gần đó. Tại
đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống
những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây
để ngụy trang mà dân vượt biên c̣n gọi là «Ghe
Taxi» hay «Cá Nhỏ» để tránh những trạm
kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất
có thể chận lại khám xét bất th́nh ĺnh.
Ghe đi được một lúc th́ nhóm tổ
chức phát cho mỗi người một miếng giấy
nhỏ, với mật mă do nhóm tổ chức ghi trên đó.
Cho đến chiều th́ ghe tấp vào
một bụi rậm ven sông để chờ đợi.
Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe
lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa.
Tại đây đă có một ghe lớn neo sẵn, c̣n
gọi là «Cá Lớn.»Đây
là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả.
Lúc này đă có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh
và mọi người cùng một lúc đang t́m mọi cách
để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng
hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em
đứng trên vai những người đàn ông hay thân
nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt
được vào cá lớn. Trước cảnh
đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, v́ nghĩ rằng
tôi không thể nào đủ sức để có thể
tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau
đó leo vào bên trong. Thời học sinh,
tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể
Dục, đặc biệt là hai môn leo
dây và nhảy cao th́ yếu nhất. Bây
giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng
phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi
là phải bám vào thành ghe đang tṛng trành trên sông
nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực
rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào
được con cá lớn mà bị rớt xuống sông
trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này,
chắc chắn một trăm phần trăm là chết
đuối, v́ tôi không biết bơi và cũng chẳng có
ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng
nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, v́ tôi
không thể t́m cách trở về nhà được trong lúc
này nữa.
Tôi chỉ c̣n biết cầu xin Trời,
Phật, Ông Bà khuất mặt hăy cứu vớt: «Con không
thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào
chết. Con phải đi thoát được th́ con mới
có cơ hội giúp gia đ́nh. Tất cả
đang trông vào con. Gia đ́nh con không có điều
kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quư nhơn giúp đỡ, con chỉ cần
quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt
được. Trời Phật có thương con, phù
hộ cho con th́ con sẽ vượt qua.»
Tôi đă có kinh nghiệm trong lần vượt
biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và
ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao
động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút
thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao
giờ tổ chức vượt biên đợi
người lên đầy đủ mới ra đi.
Tôi không thể do dự hay chần chờ ǵ
nữa! Phải quyết định tức
khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật,
vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá
Lớn, tung hết sức b́nh sinh
nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật
là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe.
Ôi! Tôi đă lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có
một sức mạnh vô h́nh nào đă nhấc bổng tôi
lên, để tôi được vào khoang ghe, v́ b́nh
thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi
điều này. Chưa kịp đứng lên
th́ đă bị một số người nhảy tiếp
sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi
có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi
sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép
sát người vào thành ghe.
Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: «Không
ai được lên nữa! Ghe đă quá
trọng tải. Nếu c̣n tiếp tục nhảy
lên, ghe sẽ bị lật và ch́m, tất cả mọi
người sẽ chết tại gịng sông này.»Ngay sau đó, người
của tổ chức bật đèn pin sáng lên để
bắt đầu kiểm tra mật mă. Một
số người tŕnh mất mă, nhưng họ cho là không
đúng và ra lệnh quăng những người này
xuống những chiếc «Ta Xi» vẫn c̣n đang bao
quanh con «Cá Lớn» chờ đợi.
Khi đến chỗ tôi
đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho
họ xem. Vừa
đọc xong, họ nói «Đây là mật mă của Ba
Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.)
Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba
Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi
về.»
Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như
tiếng sét đánh ngang tai, chân tay
rụng rời. Làm sao lại xảy ra như
vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị
tai hoạ bất ngờ v́ sự
bất đồng và phản bội trong nội bộ
tổ chức với nhau.
Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ th́
làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau
đó đứng dậy an toàn
được. Vậy mà bây giờ bị
đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại
bị ở tù.
Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ «Tôi cũng là khách như
những người khác, nhưng chẳng may là khách
của Ba Châu. Gia đ́nh tôi đă thoả
thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua
Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi
được tiếp tục đi. Gia đ́nh tôi
ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều
kiện yêu cầu của quí vị.» Khóc lóc, van
nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ
chối. Hai người đàn ông
được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng
xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc
chắn vào tù. Trong ḷng quá đau xót và coi
như số tôi phải vào tù không thể nào tránh
được.
Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi
xuống sàn ghe. Cá Lớn được
lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra
biển. Có lẽ thời gian mua băi đă hết,
nếu chậm trễ toán công an biên pḥng
khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe
lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ
trong tích tắc tôi đă thoát được cảnh
ngục tù. Phải chăng cũng là một phép
lạ do Ơn Trên đă cứu tôi?
Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày
đặc nghe rợn cả người. Chạy
khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ th́ có
những tiếng reo mừng: «Ghe đă ra được
Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp
được tự do rồi.» Vừa nghe
xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong ḷng cũng mừng.
V́ từ giờ phút này tôi đă thật
sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có
thể gặp lại, hoặc xa ĺa vĩnh viễn;
nếu như gặp nạn không tới được
bến bờ.
Lúc này nhóm tổ chức bắt
đầu quay lại hạch sách những hành khách của
Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng
người. Ai có cà rá, đồng
hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị th́
đưa cho họ ngay. Khi họ
hỏi tôi có ǵ đưa cho họ, tôi trả lời không
có ǵ hết, ngoài một ít hành lư tôi đang có trên
người. Thậ ra, tôi có giấu
một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho
để pḥng khi hữu sự. Tôi không thể nào
nộp cho họ.Tôi năn nỉ với
họ là khi nào được định cư, tôi hứa
sẽ xin hoàn lại đầy đủ.
Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên
đại dương bao la. Tất
cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa
sẽ đến được bất cứ trại
tị nạn nào và sau đó được đi
định cư ở một nước thứ ba; lúc
đó coi như đổi đời. Khi
mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa
trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối
nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi
người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào
buổi chiều. Điều này khiến
mọi người trên ghe hoang mang. Vậy
là sao? Lúc đi đă hứa lương
thực, nước uống cung cấp đầy
đủ. Bây giờ lại xảy ra t́nh huống
kỳ quái này! Có chuyện ǵ đây?
Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công
chánh mang theo các phương tiện
đi biển đă bị kẹt lại, không hiểu v́ lư
do ǵ mà không lên Cá Lớn được? Nên
chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được
các trại tị nạn như đă dự tính, v́ trên ghe
không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài
công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường
sông. Bây giờ chỉ c̣n trông mong vào
số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải
lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày.
Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào
đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài
trường hợp các ghe đi trước may mắn
đă gặp. Bây giờ, xin các bà con thông
cảm về việc cần phải tiết kiệm
nước tối đa để có thể cầm cự
trong thời gian dài chưa biết đến khi nào.
Khi nghe chủ ghe giải thích xong,
mọi người trên ghe cùng nh́n nhau lo lắng. Riêng tôi chết
lặng cả người. Bao nhiêu tin
tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong
đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may
mắn không có ǵ xảy ra th́ chỉ vài ba ngày là đến
được trại tị nạn. Có những chuyến
lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát,
bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt
lẫn nhau để được sống c̣n; và cũng
có những chuyến bị hải tặc tấn công
cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ
bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc
về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền
thông đă đăng tải.
Tôi nghĩ số phận chíếc
ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô
định nào? Lương thực,
nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt
trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm
mồi cho đại dương. Tôi có đạt
được sự đổi đời như mơ
ước, được sống và học hỏi ở
các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện
để giúp đỡ gia đ́nh đang tin tưởng
vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách ḿnh đi t́m
một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia
đ́nh đau khổ hơn và mang tội bất hiếu
với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm
Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà
rơ ràng tôi đă thoát chết từ lúc nhảy vào
được cá lớn, và chút xíu nữa đă bị
chủ ghe ném xuống «taxi», nếu không có báo
động bất ngờ xảy đến.
Bóng đêm lại buông xuống, tôi
mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ
đến ngày mai mới được phát nước
uống. Tôi nghĩ ḿnh có đem theo
b́nh một lít nước. Nếu mỗi ngày
uống hai muỗng th́ tôi có thể cầm cự
được trên nửa tháng. Thế
là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa
kịp cất lại th́ vợ chồng trẻ và cô em gái
ngồi kế bên thấy tôi cầm b́nh nước th́ van
xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và
lịch sự. Tôi nghĩ cho ba
người uống th́ nhiều quá, nó sẽ ảnh
hưởng đến số nước dự trữ
của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này.
Nhưng thấy họ nói quá, nên động ḷng trắc
ẩn.Tôi trao b́nh nước cho họ và nói «xin mỗi
người chỉ được một hớp thôi nhé!» Tuy nhiên, khi
cầm được b́nh nước trên tay,
sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu
trả lại, mà c̣n giở giọng côn đồ ra thách
đố tôi muốn làm ǵ th́ làm! Vô t́nh tôi
đă tự đánh mất bùa hộ mệnh v́ ḷng
thương không đúng người.
Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền
đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu
để ra dấu kêu cứu. Nhưng
chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng
của đại dương lạnh lùng và ghê sợ.
Trên bầu trời không có bóng dáng một loài
chim biển nào. Mọi người
đoán là ghe đă đi lạc và cách rất xa đất
liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức
đầu, chóng mặt v́ các mùi hôi thối của ói
mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu
xông lên nồng nặc, v́ chỉ có một chỗ đi
vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người
nằm, kẻ ngồi la liệt không c̣n chỗ để
nhúc nhích.
Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô
bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối
diện tôi bị ngất xỉu v́ khát. Mẹ
của cô khẩn khoản, van xin «Ai có nuớc làm ơn
cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có
thể cứu sống được con tôi». Không
một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ
lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ
«Không ai được tự động đi lại,
phải tuyệt đối giữ ǵn trật tự
tối đa. Không được đ̣i hỏi bất
cứ ǵ! Nếu ai không chấp hành và căi lời sẽ
bị ném ngay xuống biển.» Nh́n mặt cô bé nhợt
nhạt v́ khát, chỉ cần một muỗng nước
là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không
thể đành ḷng nh́n cô bé đang bất động, dù
kiệt lực, tôi cũng cố gắng ḅ lên cầu thang
để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nh́n tôi bằng cặp mắt giận
dữ. Tôi b́nh tĩnh nói với họ là tôi không xin cho
tôi mà xin các ông hăy nhỏ ḷng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước.
Nếu không, cô ta sẽ chết v́ khát! Quả thật, khi
được vài muỗng nước th́ cô bé lần
hồi tỉnh lại. Gia đ́nh cô rất vui mừng và
tôi cũng vui theo.
Ngày thứ ba, biển vẫn yên,
sóng vẫn lặng. Đúng là Thái B́nh Dương! Tuy
nhiên, trong ḷng mọi người đều bồn
chồn, lo lắng. Sự đói khát
đă bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt
trời chiếu xuống, th́ cô bé lại kiệt sức và
bất tỉnh lần nữa. Gia đ́nh cô bé không dám
gặp chủ tàu xin nước v́ sợ chủ tàu nóng
giận th́ sẽ bị phiền phức. Sự
việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không
thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi
gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước th́ cô
bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua.
Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như
sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô
bé vừa rồi. May sao, có một cơn
mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng
như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như
nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát
dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm
bạt Nylon để hứng nước mưa, xong
đổ vào những thùng nhựa. Kết
quả không ai có thể thể nào uống được
v́ những thùng chứa nước mưa trước
đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho
nước mưa có mùi giống như nước cống
rảnh, đen ng̣m cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay.
Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép
màu đă tiếp sức cho tôi sống c̣n.
Sang đến ngày thứ tư
lênh đênh trong vô định. Giấc mơ t́m tự do có dấu hiệu
tốt đẹp hơn. Đă thấy những cánh chim
biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói
dài của vài chiếc phi cơ phản lực để
lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp
nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo
để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp
đỡ. Có lẽ họ sợ lănh
trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái?
Thế rồi, thất vọng này, tiếp
nối theo thất vọng khác. Những
cơn đói khát dày ṿ cơ thể. Tôi bị khát rang
cả cổ, nên không thể nào nuốt được
bất cứ ǵ. Thức ăn mang theo
tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ
cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi
xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người
quăng tôi xuống biển như lời ông ta đă
hăm doạ. Trong lúc đó gia đ́nh chủ tàu có nước,
có dừa, có cam quưt tha hồ sung sướng không sợ
đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh
thoát hiểm. Họ lượm các vỏ
dừa ném bừa băi dưới ghe, đem tướt
những lớp xơ để ngậm lấy chất
đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho
cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng v́ khát.
Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp
tục cầm cự, chưa bị gục ngă.
Cô bé trước mặt tôi lại ngất
xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ
cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ
ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể ḅ lên
cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm
chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng
cho mọi người. Trong ṿng 30 phút cô bé cứ
lập đi, lập lại: «cho tôi nước, cho tôi
xin nước, nước, nước.» Tôi thấy
tội nghiệp và đau ḷng qua, cầu mong cho mưa
xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào
mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một ṿng mắt
và rồi nhắm nghiền lại và bất động.
Ngựi Mẹ hét lên «Cứu con tôi, con tôi chết rồi.» Tất cả mọi người đều
sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng
chạy xuống đem theo nước
đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đă bất
động và không bao giờ cần xin nước nữa!
Mẹ cô, anh em trong gia đ́nh khóc nức
nở. Mọi người, kể
cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động.
Có lẽ họ đang hối hận về
sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước
như hai ngày vừa qua. Nhất là đă
không giữ lời hứa lo cho khách lương thực
đầy đủ trong mười ngày.
Mới có ngày thứ năm, đă
có người chết v́ không được cung cấp
nước. Với t́nh
trạng con thuyền trôi vô định không biết đi
về đâu? Dù biển yên, sóng lặng
cũng sẽ chết dần, chết ṃn, chứ
đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử
thần đang chập chờn. Mọi
người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ
có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi
đến được «bến bờ Tự Do».
Nắng đă bắt đầu
tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu
quyết định «thủy táng cô bé». Họ kêu
gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo
của ḿnh cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết ǵ
về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ
những năm sau 30/04/1975, tôi đă sống triền miên
trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu
nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đ́nh đang
tan nát v́ cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và
các em c̣n quá nhỏ dại.
Những năm gần đây, có
những quư nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh «Bạch Y Thần Chú»
để cầu nguyện. Biết rằng
đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng
tôi cảm thấy có thể làm người mất đi
được ấm áp, nên tôi t́nh nguyện đứng ra
thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi
biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không c̣n nhớ họ). Sau
khi thắp nhang do chủ tàu mang theo
đưa cho. Tôi lăm răm tụng
niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến
gần xác cô bé, người đỡ
đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống
biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người
Mẹ và anh em trong gia đ́nh. Tôi cũng không cầm
được nước mắt, thương tiếc cho
cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua.
Hôm nay em đă đi vào ḷng đại
dương chỉ v́ nhóm tổ chức đă tàn nhẫn
bội ước.
Tôi chợt rùng ḿnh: «Nếu không có cơn
mưa nhiệm mầu hôm qua, th́ nguời đầu tiên
bị Thủy Táng đă là tôi.» V́ có lẽ
không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin
nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày
như Tuyết Nhiên.
Sự xúc động vẫn chưa nguôi, th́ nghe
tiếng xôn xao «Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy
ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di
chuyển.Vậy, bà con nào biết ǵ về sửa chữa
máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp.» Một vài
đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay
hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại
kết quả ǵ! Chiếc ghe vẫn không
thấy động đậy.
Sau đó một hiện tượng kỳ
lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đă
diễn ra trước mắt tôi và mọi người:
Tự nhiên, một số người đứng dậy
nhốn nháo làm chiếc ghe tṛng trành, nghiêng qua, nghiêng
lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên: «Xin bà con hăy
ngồi yên, nếu c̣n tiếp tục ghe sẽ lật úp và
mọi người sẽ chết hết.» Tôi kinh ngạc nh́n
thấy vài người lần lượt sắc mặt
trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và
miệng th́ thào: «Nước, cho tôi xin nước.» Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của
Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ
như vậy th́ một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi
mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc
mặt và lập lại đúng câu đó, giống như
những người kia.
Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi
mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một ḿnh.
Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt
kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy
đi t́m chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ
ngay lập tức: «Đúng là hồn của Tuyết
Nhiên nhập vào cô này rồi.» Tôi b́nh tĩnh, nghiêm trang nh́n thẳng
vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta
và nói: «Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hăy
tha thứ cho những ai đă sai lầm không cho
nước để em được hồi sức. Em
hăy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe
đuợc an toàn, không bị nguy
hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời,
Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho
hương linh em được siêu thoát về cơi vĩnh
hằng».Tôi niệm: «Nam Mô A Di Đà
Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.» Thật là
quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc
mặt cô ta trở lại b́nh thường và không nhớ
ḿnh vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết
Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước
đó.
Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó
có nhiều tiếng reo mừng: «Ồ, máy ghe đă
nổ lại được rồi, ghe từ từ
chuyển động và đi tiếp.» (Hai hiện tượng
này không thể giải thích theo khoa
học được và coi như hoang tưởng.
Nhưng tất cả là sự thật một trăm
phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn c̣n thắc
mắc về sự kiện này.)
Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hăi lại
tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên
chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đă bước vào ngày thứ năm
giữa đại dương bao la. Tôi
nhớ là ngày 28 tháng 09, năm1984.
Tất cả mọi người gia tăng
sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp
đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua
cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi ṃn,
kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao
có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của ḿnh, mọi
người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng,
hiển linh phù trợ. Riêng tôi th́ liên tục
cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ.
Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng
những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó
biến dạng.
Th́nh ĺnh, mọi người
thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện
và đang tiến dần về phía ghe của ḿnh. Tất cả
đều mừng rỡ và hy vọng gặp «Thần
Hộ Mạng» đến cứu. Họ cho
thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau
đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định
thần và thấy năm người đàn ông đen như
cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên
người chỉ mặc một quần xà lơn. Một
người cầm súng dài. Tôi đoán có
lẽ là tên cầm đầu? Bốn
tên c̣n lại th́ kẻ dao, người búa và mă tấu.
Có tiếng x́ xào «Chết mẹ rồi, gặp hải
tặc là coi như xong đời.»
Tự nhiên, toàn thân thể tôi
cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hăy cứu con! Con luôn ngày
đêm nguyện cầu: «Đừng cho con gặp
hải tặc. Nếu gia đ́nh con đă đến lúc
tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong ḷng
đại dương, c̣n hơn rơi vào tay bọn hải
tặc.»
Lời nguyện cầu của con không được
Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số
rồi sao? Tim tôi đập vào lồng
ngực th́nh thịch y như tiếng trống. Tôi
tưởng chừng như trái tim
văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay
tại chỗ.
Bọn chúng trao đổi với
nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi
người. Ai
cũng đoán và hiểu là «Không được di
chuyển hay động đậy. Nếu căi
lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập
tức.»
Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng
người, tịch thu những ǵ quư
giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm
người bị chúng lục soát.Tôi và vài người khác
không có ǵ đáng giá, c̣n đa số không ít th́ nhiều
đều bị chúng tước đoạt của
cải. Tính ra chúng tịch thu
cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị
thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm
súng mang các «chiến lợi phẩm» cướp
được đem trở lại thuyền. Bốn tên
hải tặc trên ghe dơi mắt nh́n theo
hắn một cách chăm chú, h́nh như muốn xem tên
đầu đảng cất giấu chiến lợi
phẩm ở đâu?
B́nh thường, tôi
được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa v́
thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn
càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ
khoảng hơn mười thước. Lợi
dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi
ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài
người «Bà nội này tới số rồi, muốn
chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném
xuống biển!»
Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục
nhớt đen thui và nói «Trắng quá, bôi ngay vào mặt
đi.» Tôi vội vă bôi ngay vào mặt mũi và khắp
cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao
kêu: «cho tôi xin cục nhớt với.» Anh tài công
lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái.
Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét,
chửi rủa và bắt phải im lặng. May
sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe,
nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa
mắt nh́n về phía thuyền của chúng. Lúc này, nh́n
lại th́ tôi đang ngồi đối diện với
Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn
Tuyết Nhiên nhập vào vài người th́ họ đă
sợ chạy đi t́m chỗ khác, do đó nhiều
người không c̣n ngồi vị trí cũ nữa.
Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út
khoảng 2, 3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra
lệnh: «Cô hăy ôm cháu vào ḷng ngay đi.» Mấy cô ngồi bên
cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói: «Yên ngay! Cô
này là D́ ruột của cháu bé này.» Lúc này,
bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí
đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc
tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên
cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo,
đen đúa, râu ria lổm chổm dùng
cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến
đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên
và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn
đưa mắt thật nhanh nh́n đứa bé,
rồi quay nh́n tôi. Thấy một phụ nữ có con quá
dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên
buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng
sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt
được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh
đẹp. Chúng lôi xềnh xệch
về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng
vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin,
gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số
các cô bị chúng bắt mang theo có con gái
chủ ghe mới 15 tuổi.
Người trên ghe bèn đặt cho tôi một
biệt danh là «Người đàn bà bị hải
tặc chê.»
Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh
mọi người phải im và dùng vũ khí đập
mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này,
tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để pḥng thân, nhưng không
dám chống cự, v́ sợ nếu chống cự bọn
hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết
mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải
bó tay chịu trận, và đành đau
ḷng hy sinh ngay cả con gái của ḿnh cho bọn hải
tặc bắt mang đi.
Chiếc thuyền của bọn
cướp biển đang xa dần. Mọi người
trên ghe vẫn c̣n sững sờ v́ vừa trải qua
một biến cố quá kinh hoàng. Những
tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi
thật sầu thảm. Tôi không biết
ḿnh đang tỉnh hay đang mê? Tôi đă thoát khỏi
bàn tay hải tặc dễ dàng vậy
sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy
chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra
lệnh ở đâu phải ngồi đó, không
được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng
của bé Tuyết Nhiên đă nhấc tôi đứng dậy,
đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may
mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và
được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng,
cũng như tại sao anh tài công đă ném cho tôi cục
nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ
đó, tôi đă thoát khỏi bàn tay hung ác
của hải tặc trong đường tơ, kẻ
tóc. Vậy là thêm một phép lạ đă
cứu sống tôi. Mới có mấy ngày
mà tôi đă suưt chết mấy lần. Liệu tôi c̣n
sức và c̣n may mắn thêm lần nào nữa để
được bến bờ tự do hay không?
Mọi người bắt đầu lao xao: «Tát nước ngay, tát nước
ngay! Nước tràn vào ghe rồi!» Đàn ông, thanh niên cố
gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa,
cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm
v́ những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp
gây ra. Ôi! Vừa không biết phương
hướng, vừa chống chọi với đói khát,
vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc
ghe sẽ bị ch́m v́ nước biển đang tràn vào.
Bây giờ, mọi người thật sự
thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn.
Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn
cố hy vọng «c̣n nước, c̣n tát.» Chiếc ghe
cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp
tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi
trong sự hăi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập
lại trong đầu: «Con không thể chết
được. Con là niềm hy vọng của gia đ́nh.
Con phải sống để cứu vớt gia đ́nh
đang trông mong vào con.»
Chiếc ghe tiếp tục di
chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu
tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn
sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt
nước. Vài người mừng rỡ, la lên: «Có giàn
khoan dầu ở phía trước. Hăy cố
gắng hướng về phía đó. Hy vọng
sẽ được vớt.» Tôi chợt bừng
tỉnh, nh́n những ánh đèn màu rực rỡ ở trên
cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như ḿnh đang
mơ khi được thấy cung điện của
Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe
tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi
biết đây là sự thật! Không phải là ảo
tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất
lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn
hét to lên: «Vậy là coi như thoát chết, sẽ
được giàn khoan cứu vớt, sẽ
được đến bến bờ tự do như
đă cầu khẩn. Vậy là đă được
Trời, Phật chứng giám, độ tŕ.»
Mọi nguời như
được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra
cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn,
chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn.
Một lúc sau chiếc ghe đă đến
được gần chiếc tàu khổng lồ treo
cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô
cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào t́nh trạng hôn
mê v́ đă kiệt sức từ lúc quá hăi hùng khi vừa
thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát
sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước
uống, nên tỉnh dậy, th́ ra đó là vài ba thủy
thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi
nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói «Có
một cựu Trung Úy Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa đă lên gặp Thuyền
Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông
ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá
hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng
cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt.» Nhưng vài
phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn
tuyệt vọng cho biết: «Thuyền Trưởng không
thể nào cứu được, v́ họ đang làm
nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông
tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn
đi về hướng trại tị nạn. Ông
nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao
Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.» Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng
cũng mừng v́ đă có hải bàn và hy vọng sẽ có
tàu đến cứu. Hiện giờ
đă được cung cấp nước uống,
thức ăn, một số quần áo; không như
trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng
hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng.
Tôi đang hồi tỉnh một chút th́ lại
choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh
niên la to lên: «Trong chuyến đi này có một cô giáo
dạy Anh Văn tên Duyên. Vậy cô Duyên có trên
ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp
Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi?» Tôi đoán thanh niên này là
Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh
chưa hề gặp tôi, nhưng đă được anh
Trụ dặn: «Hăy nhớ t́m cô Duyên, cô giáo
dạy tiếng Anh đi trong chuyến này». Mọi người
lao xao la to theo: «Cô Duyên đâu? Cô Duyên
đâu?»
Tôi chưa kịp trả lời th́ nghe tiếng x́ xào: «Chắc
cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải
tặc bắt đi theo rồi chăng?» Tôi không c̣n đủ
hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói: «Ồ!
cái bà tưởng đă chết hồi
sáng nay.»
Hai thanh niên c̣n khoẻ mạnh
vội tiến về phía tôi, một người khiêng
đầu, một người khiêng chân để
đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi
nằm trên sàn tàu.
Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ
vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy,
tiếp theo cho uống một loại
nước hay thuốc ǵ đó. Vị Bác Sĩ tiếp
tục đo huyết áp, nghe tim, phổi
và theo dơi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên.
Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15
phút, tôi thật sự tưởng ḿnh đă
được uống thuốc tiên «cải tử hoàn
sinh» trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả
lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rơ
ràng, và xin được đứng dậy để
được nói chuyện với Thuyền Trưởng
cũng đang đứng tại đó.
Lần đầu tiên được
đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng
mênh mông, mà trước đó chỉ được
ngồi chen chúc như cá hộp trên
chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hăi hùng
với bao biến cố cận kề cái chết. Nh́n những ánh đèn màu rực rỡ từ trên
cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh
của mặt trời như một viên hồng ngọc
trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi
tưởng ḿnh đang ở Thiên Đàng. Nếu may
mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho
lên chiếc tàu Panama, th́ đúng như từ âm phủ
được lên cơi Tiên.
Sau khi nghe tôi tŕnh bày «Chúng tôi là những
người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đă
bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm
nguy để đi t́m tự do bằng chiếc ghe bé bỏng,
mong manh và hiện đang bị vô nước v́ hải
tặc đâm thủng». Vị Thuyền Trưởng
lắc đầu, rồi buồn bă nói: «Tôi rất
tiếc không thể cứu quư vị được. Trước đó đă có hai người đàn
ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đă
giải thích lư do tôi không thể cứu được.
Thứ nhất:
Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại
nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy
đủ phương tiện cứu nạn.
Thứ hai: Số người trên ghe quư vị
phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp
rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quư vị đừng nên lo lắng.
Hăy an tâm. Tôi đă cung
cấp hải bàn để định phương
hướng trên biển. Tôi đă hướng dẫn
kỹ lưỡng đi về phía có trại tị
nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các
tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển
gần đây đến để cứu quư vị. Các thủy thủ chúng tôi đă làm mọi cách
để giúp quư vị rồi. Tôi nghĩ quư vị
sẽ lên đường b́nh an.»
Đến đây, tôi lại
thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu
tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho
đến nay đă 5 ngày lênh đênh giữa đại
dương trong tuyệt vọng. Nếu
không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi c̣n sống sót
đến giờ phút này. Ôi! Tại sao
có thể như thế này? Phải cố gắng nài
nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng tŕnh
bày với Thuyền Trưởng những biến cố
hăi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đă trải qua mấy
ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên
chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đă chết khát và
phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đă
bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đă
làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có
thể cầm cự, sống c̣n. May
mắn đă gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao
Ủy Liên Hiệp Quốc đến cứu, có lẽ
tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả
không bao lâu nữa.
Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc
động, nhưng lại trấn an tôi: «Bây giờ
đă có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao
Ủy Liên Hiệp Quốc đến cứu, quư vị
đă có đủ lương thực và nước
uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm». Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong
manh, chật ních, ngột ngạt v́ bao nhiêu mùi hôi hám cũng
đủ chết. Trên ghe ai có đủ
khả năng biết xử dụng hải bàn để
lái cho đúng hướng? «Sai một
ly sẽ đi một dặm» giữa đại
dương th́ cũng sẽ lạc hướng, tiếp
tục trong vô định. Thêm vào đó
t́nh trạng chiếc ghe bị đục thủng th́ làm
sao cầm cự cho đến khi gặp được
tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc?
Đứng trên sàn tàu kiên cố
này, tôi thấy rơ rằng. Đây là đất sống.
Chiếc ghe mong manh kia là miền
đất chết. Tất cả sẽ
đi vào cơi chết nếu như không được lên
tàu Panama này. Giờ phút này gặp
giàn khoang mà không được cứu, th́ đúng là số
tôi phải chết dưới ḷng biển rồi. Tôi
lặng người khẩn cầu Trời, Phật: «Gia
đ́nh con thật sự đă đến lúc tận cùng
mạt vận, nên con đă thoát khỏi tay hải tặc,
nhưng phải chịu chết dưới ḷng đại
dương như đă khấn nguyện chăng? Tại
sao Trời, Phật đă ra tay cứu con thoát khỏi bao
nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt
con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng
thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại
sao? Tại sao? Nguời cha già,
cả một đời là công chức hiền lương
cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đă
chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu
năm, nay sẽ càng đau thương hơn?»
Con phải sống. Con chỉ có ước
nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường
hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu
xin được gặp lại một «thiên thần»
đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng
giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt
vọng rồi, nên nước mắt đầm đ́a,
ngước nh́n Thuyền Trưởng khẩn khoản
trong nghẹn ngào. «Nếu ông cương quyết
từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin
kính chào Vĩnh Biệt. V́ tôi tin chắc rằng giờ phút
tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe
bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết
dưới ḷng biển. Chiếc ghe đă
bị đục thủng và đang bị vô nước
trầm trọng th́ làm sao chúng tôi có thể có cơ hội
gặp được tàu của Cao Ủy Liên Hiệp
Quốc cứu như lời Thuyền Trưởng nói.
Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!»
Sau lời chào vĩnh biệt
đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng
của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật
sự. Ông hỏi tôi: «Có
tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?» Tôi trả lời «Tôi không biết», nhưng
có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp:
«Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại,
chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ
nữ. Đây là những người dễ dàng bị
chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên
xin tiếp tục lên đường, sẽ
được tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc hay
các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu.»
Ôi! Thuyền Trưởng đă đổi ư!
Đă bằng ḷng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và
chắc chắn sẽ được đến bến
bờ «Tự Do» như hằng ước nguyện.
Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời,
Phật, những người khuất mặt đă làm
Thuyền Trưởng đổi ư? Tôi quay qua nói
với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang
đứng đó, nóng ḷng chờ kết quả: «Thuyền
Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ
nữ mà thôi!»
Hai anh thét to lên: «Thuyền Trưởng đă đồng
ư cứu trẻ con và phụ nữ.»
Sau đó, ông ra lệnh cho các Thủy Thủ
xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các
phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất
cả là 50 người. Mọi người khóc
nức nở, đưa tay vẫy chào những
người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em… phải
ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao
biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết
đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay
sẽ vĩnh viễn chia ĺa? Mặc dù, tôi không có bất
cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng
trước cảnh chia ly năo nề với những
người đă chịu cùng chung
số phận với ḿnh từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi
sẽ được b́nh yên, đến được
bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; c̣n
họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh
đênh trên biển cả, dù được cung cấp
đầy dủ phương tiện đi biển?
Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có
kinh nghiệm đi biển th́ làm sao đi đúng
hướng và biết đến khi nào gặp
được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu
nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là
vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy «Chiếc
ghe ấy là cơi chết», nên tôi rất đau ḷng và suy
nghĩ. Hay ḿnh thử cố gắng năn
nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đă can
đảm không xin lệnh cấp trên để tự
quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây ǵờ ḿnh yêu sách thêm. Không
biết ông sẽ phản ứng ra sao? Ḿnh
có quá đáng và không biết sự quảng đại
của ông không? Nh́n thấy 50 người đứng
chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần
trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng
đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng
nói với ông: «Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha
thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông
đă cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hăy cứu tất cả mọi
người c̣n lại. Với chiếc ghe như
vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp
được tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi
chỉ cần một nơi an toàn có hy
vọng được sống. Chiếc tàu của ông là
đất sống, chiếc ghe kia là cơi
chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà
tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao
của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng
chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp
Quốc đến giúp đưa đi tới trại
tị nạn.»
Có lẽ Thuyền Trưởng đă xúc động
giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào
biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ
mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu: «Ba ráng bảo
trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm
biệt cậu, chú, v.v...» nên ông lặng yên, trầm ngâm
suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nh́n tôi nhè nhẹ gật
đầu và ra dấu bằng ḷng cứu tất cả
mọi người c̣n lại trên ghe. Nhiều
tiếng hét to: «Thuyền Trưởng bằng ḷng
cứu tất cả mọi người.» Ôi! Không c̣n ǵ may mắn và
hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau ḷng như
một đám tang tập thể trước đó, lập
tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi
người. Thế là, từng người vội vă
cuống quưt leo lên thang dây với sự
giúp đỡ của các Thủy Thủ để
bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt
rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng
hoảng vẫn c̣n in trên nét mặt.
Khi không c̣n ai lên nữa, vài thủy thủ
hỏi to bằng tiếng Anh: «C̣n ai ở dưới ghe
không?» Không có tiếng trả lời. Họ hỏi
thêm vài lần nữa! và nói chúng tôi xem
lại có người nào bị kiệt sức, ngất
xỉu chưa lên được chăng? Tất
cả gia đ́nh cùng xem lại thân nhân của ḿnh.
Thật là một cử chỉ nhân từ và chu
đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa
chặt đứt sợi dây thừng to dùng để
cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó,
chiếc ghe tṛng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng,
trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên
tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu
tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi
thường mang theo trong những
lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo gịng
nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất
cứ nơi đâu!
Tất cả mọi người
được yêu cầu đứng xếp hàng để
đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ
em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới
đếm xong th́ vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm
ầm từ đâu kéo tới, kèm theo
những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào
cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vă dùng
những sợi dây thừng thật to, cột mọi
người lại với nhau, và sau đó buộc chặt
vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn
trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra
trước mắt mọi người đang bị
ướt đẫm: Chiếc ghe mà truớc đó
chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt
đă bị nhận ch́m theo những
đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay
dưới cơn mưa tầm tă đổ xuống
như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời.
137 người trong đó có tôi
đă chết đi và sống lại trong sự nhiệm
mầu của Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp
vị Thuyền Trưởng đầy ḷng bác ái và nhân
từ này th́ chúng tôi đă cùng theo
chiếc ghe ch́m sâu vào ḷng đại dương lúc đó.
Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác.
Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đă
chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm
mầu của Thượng Đế, Trời, Phật
đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và
kể từ giờ phút này đă cùng 136 người
được trở về từ cơi chết.
Thuyền Trưởng và các
Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đă cứu
đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong ṿng vài phút đă có
những tấm bạt khổng lồ được
căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang
bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập
bởi những luồng gió mạnh như vũ băo
quất thẳng vào người.
Sau đó mọi người
được các Thủy Thủ đưa vào các pḥng cho
ấm. Rồi họ
phân phát những cục xà bông thơm
phức và một số quần áo, yêu cầu mọi
người lần lượt, từng nhóm bốn, năm
người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi
tắm, v́ không có đủ pḥng tắm cho từng
người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đă hoàn
hồn, và không c̣n lạnh run nữa, không khỏi bật
cười khi nh́n thấy vài cô mặt mũi, ḿnh mẫy
vẫn c̣n dính đầy nhớt, lem luốc trông thật
gớm ghiếc (giống như tôi).
Sau khi được tắm
rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người
được mời vào pḥng ăn. Bao nhiêu thức ăn
được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp
đă được bày sẵn trên các bàn trong căn pḥng
sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy
ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và
lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi
cảm thấy như được thưởng thức
một bửa yến tiệc linh đ́nh, thịnh soạn
do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi
nhờ vài thanh niên đi ṿng quanh càc bàn nhắc nhở
mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao
tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy
hiểm đến tính mạng khi chuyển từ t́nh
trạng quá đói sang quá no.
Mọi người lại được phân
phát mền, dù không đủ cho mọi người,
nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm
đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu
dưới những tấm bạt che mưa vẫn
đang c̣n rỉ rả. Riêng tôi th́ may mắn
được ngủ trong một pḥng riêng nho nhỏ, có
lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ
cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này?
Cơn giông băo đă ngưng gầm thét
để cho mọi người được ngủ yên
trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đă sống lại từ cơi
chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như
ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một
giấc ngủ thật say trong tâm trạng b́nh an, và tinh
thần phơi phới như đêm hôm đó!
Chúng tôi chỉ van xin Thuyền
Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn
tàu Panama kiên cố, để được
sống sót, và chờ đợi được tàu của
Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu.
Chúng tôi không dám mong được ăn
uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế
này. Chắc là đoàn người chúng tôi
đă tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự
trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn?
Có thể v́ thế mà Thuyền Trưởng đă
cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền
Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể
đền trả được.
Mọi người sung sướng, yên tâm
chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và
một đêm. Lần thứ hai được nằm trên
chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng
phau giữa tiếng sóng biển ŕ rào và thỉnh thoảng
có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ
xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao
giờ tôi có trong đời đă đưa tôi ch́m vào
giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái.
Tiếng gơ cửa của một
Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi c̣n
đắm ch́m trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi
vừa mở cửa «Tôi xin lỗi đă đánh thức
cô. Cô đă có một giấc
ngủ ngon không? Thuyền Trưởng
muốn gặp cô».
Tôi vội theo anh ta
bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh b́nh minh giữa đại
dương, mặt trời thật rạng rỡ trên
mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc c̣n
đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc.
Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi
đang đứng chờ và đưa tay
ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt
thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang
tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị
Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và
làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên
Chúa Giáo, tôi cũng vội vă quỳ xuống theo.
Rồi Thuyền Trưởng đứng
đậy, nói: «Cảm ơn Thượng Đế
đă nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được
137 người. Đúng như lời cô,
nếu tôi không thay đổi quyết định kịp
thời, 137 người đă thật sự bị chôn vùi
dưới ḷng đại dương lúc đó. Và
suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được
với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, v́ ảnh
hưởng của cơn băo, điện thoại cũng
hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể
chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để
đưa quư vị đến một trại tị
nạn gần đây nhất».
Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết
tận đáy ḷng, vô cùng cảm ơn
cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho
tôi cơ hội được liên lạc với ông trong
tương lai khi được định cư. Thuyền
Trưởng về pḥng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh
giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất
liền bằng chữ viết tay:
Captain Brian O' Connell
17 Arundel Close
Bexley
Kent
England
U. K
Các Thủy Thủ được lệnh
nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ
từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu
đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30
tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày th́
đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị
nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên
quốc gia Mă Lai Á.
Mọi người coi như
đă đạt ước nguyện nhờ ơn cứu
mang của vị Thuyền Trưởng có tấm ḷng bác ái
bao la, «Thuyền Trưởng O'Connell». Lần lượt
từng người chào từ biệt Thuyền
Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả
sự biết ơn không có lời nào có thể diễn
tả được. Tất cả Thủy Thủ
đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may
mắn, sớm được định cư ở
một nước thứ ba.
V́ tàu được cặp vào đất
liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển.
Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như
bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên
chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên
dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là
Jetty.
Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi
giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên
Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn
người tị nạn được
tàu Panama bàn giao.
Một trang sách mới đă được
lật qua trong ḍng đời của 137 thuyền nhân
sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09,
năm 1984 v́ đă may mắn gặp được vị
Thuyền Trưởng giàu ḷng nhân ái. Và bắt đầu
đoạn đời tị nạn từ đây với
mă số do Văn Pḥng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên
theo thứ tự khi có đoàn
người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong.
Vẫy tay chào
tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh
mông, tôi vẫn c̣n ngẩn ngơ như đang mê ngủ.
Đứng trên nền cát trắng, dưới những
hàng dừa xanh cao vút dọc theo băi biển, tôi hướng
về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần
đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt,
thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ
Thượng Đế, Trời, Phật, những
hương linh đă cứu vớt tôi thoát khỏi Tử
Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố
kinh hoàng suốt mấy ngày qua.
Từ đây, bắt đầu một khúc
rẽ cuộc đời như một hành khất đi
chân đất, với hai bàn tay không; cái
túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đă bị
rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng
lên tàu Panama. Tôi đă không dám xin đôi giầy hoặc
dép trong thời gian chờ đợi, v́ đă nói với
Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng
trên «vùng đất sống».
Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có
một trái tim tràn ngập ḷng biết ơn Thượng
Đế, Trời, Phật và những ân
nhân đă cứu giúp tôi trên từng bước
đường đời, sự thương nhớ
những người thân yêu c̣n lại đang vất
vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những
ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó
là một linh hồn nặng trĩu với những h́nh
ảnh hăi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành tŕnh đi
t́m «Tự Do», với bao kư ức đau buồn
của những năm tháng” đại bác đêm đêm
vọng về thành phố” trên quê hương. Một linh
hồn quằn quại v́ sự tan nát của gia đ́nh khi
chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước
mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất
chồng.
Thấm thoát đă hơn ba
mươi mốt năm trôi qua. Tôi đă bước qua bao nhiêu ngă
rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo gịng nước. Có những lúc rẽ qua
gịng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào gịng sông êm
ả và cũng có lúc di vào ḷng biển khơi đang trong
cơn giông tố. Ở bất kỳ ngă
rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong
đời, tôi có thể quên được những phép
lạ đă cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm
màu ấy.
Những lời cuối cho ḍng hồi ức
về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay
mặt 137 người cùng thoát chết dưới ḷng
đại dương trong cơn giông băo vào buổi
chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết
đang tản mạn ở các phương trời nào, ai
c̣n, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền
Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang
phiêu du ở chân trời, góc bể nào), ḷng biết ơn vô
bờ bến và không bao giờ đền trả
được ơn cứu mạng ngày ấy.
Ước nguyện tha thiết nhất của
tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là
được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi t́m
được tin tức vị Thuyền Trưởng có
tấm ḷng bác ái bao la đă cứu 137 người
tưởng chừng như chắc chắn là chết
được trở về đất sống.
Sự liên lạc của tôi với Thuyền
Trưởng đă bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đă
bị trả về với hàng chữ: «Moved to unknown
address». Nhiều năm nay, các con tôi đă
cố truy t́m trên nhiều trang mạng từ Internet,
nhưng tảt cả đều vô vọng.
Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi
đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu
Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước
sự giúp đỡ nhiệt t́nh đầy ḷng bác ái
của quư vị.
Từ đáy ḷng, xin gửi đến cô Minh,
mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết
ơn vô bờ đă giúp tôi thoát khỏi bọn hải
tặc một cách nhiệm mầu, khi giao cháu bé và liệng
cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc.
Và cũng tận đáy ḷng, xin chân thành
đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vinh
Tôn sự biết ơn vô bờ đă giúp tôi bước
lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09,
năm 1984. Nguyễn Vinh
Tôn măi măi là một
Thiên Thần của sự trong sáng và cao quư trong hồn tôi.
Giờ đây, tôi xin thắp một nén
hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn
Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn
chân thành nhất của một người hân hạnh và
may mắn đă được anh giúp trong chuyến
vượt biên này.
Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam
Cộng Ḥa, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh
hùng đă hy sinh bảo vệ Việt Nam Cộng Ḥa, trong
đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn
Quốc Trụ, Sinh viên Sĩ quan Khoá 20 Vơ Bị Đà
Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù,
người đă tham dự trận chiến khốc
liệt nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Ḥa,
trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh
hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đă
nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc
phẩm bất hủ «Anh không Chết Đâu Anh»
của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, c̣n anh Nguyễn
Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đă bị
bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngă ở
Bắc Việt cho đến năm 1979.
Xin thắp một nén hương dâng lên
người Cô yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất
cả sự biết ơn của người cháu
được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong
giai đoạn gia đ́nh tan nát, đau thương sau
biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là
người duy nhất trong gia đ́nh Mẹ tôi c̣n ở
lại Hà Nội sau năm 1954 v́ đă không thể bỏ
lại những cây đàn yêu quư để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn
Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đă
kịp thời vào Sàig̣n để đưa tiễn Mẹ
tôi về cơi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đă khuyến khích, giúp
tôi t́m đường vượt biên, và bắt nhịp
cầu cho tôi được bước vào chuyến đi
hăi hùng, nhưng mầu nhiệm này.
Và xin thắp một nén hương nguyện
cầu cho hương linh emTuyết Nhiên cùng tất cả những
thuyền nhân đă nằm xuống ḷng đại
dương trong những cuộc hành tŕnh đi t́m Tự Do
đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn.
Nếu không có những phép lạ nhiệm
mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi
cũng đă chung số phận âm
thầm nằm trong ḷng biển cả ngày 28 tháng 09, năm
1984. Và những biến cố dồn dập
xảy ra trong suốt cuộc hành tŕnh không bao giờ thân
nhân được biết.
Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh
Trần Đ́nh Phước, cựu Trung Úy Không Quân Việt
Nam Cộng Ḥa, sự biết ơn sâu xa đă khuyến
khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt t́nh giúp tôi
hoàn tất viết lại những ḍng hồi kư đúng vào
ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ
mầu nhiệm này.
Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm Thị Duyên
· Kính dâng lên hương hồn
những thuyền nhân đă bỏ ḿnh trên biển cả v́
lư tưởng tự do. Xin Quư vị nào biết tin tức
về Thuyền Trưởng người Anh tên là Brian O’
Connell và Thủy Thủ Đoàn của tàu Panama khoan dầu
trên Biển Đông cách đây hơn 31 năm. Xin làm ơn
giúp, để tôi có thể liên lạc, dù là muộn màng. Đây cũng là ước nguyện cuối
đời của tôi.