CUỘC RÚT QUÂN HOÀN HẢO CỦA HẢI QUÂN VNCH TỪ THỦ ĐÔ SÀI G̉N RA VŨNG TÀU NGÀY 29/4/1975

 

https://conganhuynh.com/VungTau_files/image001.jpg

Hải cảng Vũng Tàu

Vũng Tàu bao gồm một phần lớn lănh thổ nằm trên bán đảo cùng tên, cùng với đảo Long Sơn và đảo G̣ Găng toạ lạc ở phía nam của tỉnh Bà Rịa. Thành phố Vũng Tàu nằm cách Sài G̣n 95 km về phía Đông Nam theo đường bộ và 80 km theo đường chim bay, và là cửa ngơ ra biển bằng đường sông của Sài G̣n.

 

Thành phố Vũng Tàu có diện tích 141,1 km² và dân số 527.025 người (năm 2018).

 

VŨNG TÀU THỜI CHÂN LẠP

 

Từ thế kỷ 13, vùng đất này này được gọi là trấn Chân Bồ thuộc Chân Lạp. Năm 1295, sứ thần nhà Nguyên tên Chu Đạt Quan theo sứ đoàn Trung Hoađi thăm kinh đô Angkor của Chân Lạp  ngang qua vùng đất này. Lúc về ông đă kể lại trong cuốn Chân Lạp Phong Thổ Kư rằng:

 

Rời bến Ôn Châu ở Chiết Giang... đi ngang Giao Chỉ Dương và đến xứ Chiêm Thành. Ở đấy, nhờ thuận gió, trong ṿng 15 ngày ta có thể đến Chân Bồ, đó là biên giới xứ Chân Lạp.

 

Đầu thế kỷ 16, vùng đất nay là Vũng Tàu đă được nhiều nhà du hành châu Âu để chân tới trên con đường t́m kiếm thị trường cũng như khai thác các nguồn hàng mới ở châu Á.Thương nhân Bồ Đào Nha đă gọi vùng đất này là Oporto Cinco Chagas Verdareiras với ư nghĩa là “vịnh nằm giữa những núi Cinco Chagas”. Nơi đây có thể cung cấp nước ngọt, củi đốt và cả gỗ tốt để làm cột buồm cho những chuyến hải tŕnh tiếp theo. Từ năm 1775, tàu thuyền của Bồ Đào Nha và Pháp ra vào vùng biển Vũng Tàu để buôn bán, trao đổi hàng hóa, và từ đấy người Pháp gọi Vũng Tàu với tên Cap Saint-Jacques (nghĩa là "Mũi đất của Thánh Giacôbê")

 

Từ các thế kỷ 16, 17, v́ chiến tranh, nội loạn liên miên, người Việt từ các vùng Thuận-Quảng đă bỏ xứ phiêu bạt vào miền Nam sinh sống, trong đó có vùng Mô Xoài (Bà Rịa).

 

VŨNG TÀU DƯỚi THỜi TRIỀU NGUYỄN

 

Sau khi thống nhất nước nhà và lập ra triều Nguyễn, hoàng đế Gia Long đă cử ba đội quân đến đây xây dựng đồn lũy, chống hải tặc, trấn giữ cửa biển. Sau khi nạn cướp biển chấm dứt, vua Minh Mạng cho ba lớp lính trên giải ngũ và lập ra ba làng Thắng Nhất, Thắng Nh́, Thắng Tam. Ba làng này được gọi chung là Tam Thắng, sau đổi tên thành Phước Thắng thuộc phủ Phước Tuy. Trong bộ Phủ biên tạp lục năm 1776 của Lê Quư Đôn có nhắc đến bán đảo Vũng Tàu: "Đầu địa giới Gia Định là xứ Vũng Tàu, nơi hải đảo có dân cư. Tác phẩm Đại Nam nhất thống chí thời nhà Nguyễn có ghi chép lại: "... trong có vũng lớn gọi là Vũng Tàu, ngày để che chở cho tàu thuyền đỗ nghỉ. Trên núi có suối nước ngọt, chân núi tụ họp dân chài, thật là chỗ cửa quan xung yếu."

 

Ngày 10 tháng 2 năm 1859 tức mồng 8 Tết Kỷ Mùi, quan quân nhà Nguyễnđă khai hỏa lần đầu tiên những khẩu súng thần công đặt ở pháo đài Phước Thắng, cao 30 m và cách bờ biển Băi Trước gần 100 m, bắn vào đoàn chiến thuyền của liên quân Pháp-Tây Ban Nha do tướng Rigault de Genouilly chỉ huy trên đường vào xâm lược Nam Kỳ, mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Pháp ở Nam Kỳ. Trong trận này Thống chế Trần Đồng, Tổng chỉ huy lực lượng thủy lục quân nhà Nguyễn đă tử trận.

 

VŨNG TÀU THỜI PHÁP THUỘC

 

Năm 1876 Vũng Tàu được xếp vào hạt tham biện Bà Rịa, nằm trong khu vực hành chánh (circonscription administrativeSài G̣ntheo nghị định phân chia hành chính của thực dân Pháp.

 

Ngày 1 tháng 5 năm 1895 Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xă Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques. Đứng đầu đô thị này là đốc lư (résident maire). Đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa, đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 thành phố tự trị Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 xă.

 

Trong khoảng thời gian từ 1895-1900, chính quyền bảo hộ Pháp đă xây dựng nhiều bến cảng, nhà máy nhiệt điện, đường dây điện tín và khách sạn cao cấp, biến Vũng Tàu thành thành phố cảng, du lịch, nghỉ mát lớn nhất của Nam Bộ và trung tâm đánh bắt hải sản lớn của vùng. Ṭa thanh tra (l'Inspection) đặt tại đường Boulevard des Landes (nay là đường Quang Trung).

Người Pháp cũng xây dựng Vũng Tàu thành tuyến pḥng thủ quân sự quy mô kiên cố với 3 trận địa pháo cùng nhiều hầm, hào vững chắc nằm rải rác trên đỉnh và sườn Núi Lớn, Núi Nhỏ. Rải rác trong nội ô và ngoại ô Vũng Tàu là các doanh trại của lính Pháp tại Đông Dương.

 

Sau cuộc chính biến Cần vương không thành, người Pháp đă đưa vua Thành Thái về quản thúc ở đây từ năm 1907 đến 1916, trước khi bị đẩy đi đảo Réunion.

 

Ngày 1 tháng 4 năm 1905 theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Cap Saint Jacques không c̣n là thành phố tự trị và trở thành đại lư hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa.

 

Ngày 5-7-1928, Thống đốc Nam kỳ ra nghị định tách phần đất tổng Vũng Tàu gồm xă Sơn Long, ba xă Thắng Nhất, Thắng Nh́, Thắng Tam của Đại lư Cap Saint Jacques và quận Cần Giờ gồm các xă Cần Thạnh, Đồng Ḥa, Thạnh An, Tân Thạnh, lập tỉnh Cap Saint Jacques. Đến năm 1935 tỉnh Cap Saint Jacques lại hạ cấp xuống thành thị xă (commune). Năm 1947 tái lập tỉnh với tên Vũng Tàu gồm cả quận Cần Giờ của tỉnh Gia Định nhập vào, nhưng đến năm 1952 lại giải thể tỉnh, hạ thành thị xă.

 

 VŨNG TÀU DƯỚI CHẾ ĐỘ VNCH

 

Sau khi Hiệp định Genève được kư kết, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đưa nhiều người Công giáo vào Vũng Tàu và lập 3 trung tâm định cư ở đây. Những người này xây làng lập ấp ở các khu vực Bến Đá, Rạch Dừa, Phước Thắng, Nam B́nh, h́nh thành nên nhiều xứ đạo Công giáo toàn ṭng.

 

Với vị trí chiến lược ngay cửa biển sát đô thành Sài G̣n, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă củng cố và phát triển Vũng Tàu thành tuyến pḥng sự chiến lược. Sau khi tiếp quản các cơ sở quân sự của Pháp tại đây, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa và thiết lập nhiều cơ sở huấn luyện lớn như Trường Quân cảnh, Thiếu sinh quân và Quân Y Viện.Trong giai đoạn 1964 - 1972, quân đội Hoàng gia Úc đă huy động tổng cộng 61.000 quân Hải, Lục, Không quân đến phục vụ tại Vũng Tàu. Phi trường Vũng Tàu trở thành một sân bay quân sự quan trọng tại Nam phần.

 

Với ưu đăi về tự nhiên, Vũng Tàu cũng trở thành một thành phố du lịch và nghỉ mát nổi tiếng của Nam phần khi đó. Ngoài nghề đánh bắt, chế biến hải sản và trồng trọt nương rẫy truyền thống, nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng, cửa hàng cửa hiệu, cơ sở dịch vụ, phục vụ cho việc ăn chơi, giải trí của các cố vấn Mỹ và các quan chức chính quyền Sài G̣n được khẩn trương hoàn thiện, khiến cho bộ mặt thành phố ngày một hoa lệ. Khu biệt thự Lam Sơn ở gần Băi Trước và dăy quán bar ở đường Quang Trung, Trưng Trắc là các địa điểm giải trí quen thuộc của những người lính ngoại quốc trong thời kỳ này.

 

Trong cuộc chỉnh lư năm 1964, tướng Nguyễn Khánh đă tổ chức một hội nghị cấp chính phủ ở Vũng Tàu để thông qua một sắc luật gọi là “Hiến chương Vũng Tàu” nhằm trao quyền lực cho ông suốt đời.

 

Cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, thành phố chỉ có 2 trường trung học Trung học Vũng Tàu, được thành lập năm 1954 và Trung học tư thục Thánh Giuse, và một bệnh viện công cộng (Bệnh viện Lê Lợi). Cư dân chủ yếu sinh sống ở khu vực trung tâm phía Nam bán đảo và dải bờ biển phía Tây dọc theo các làng Thắng Nh́, Thắng Nhứt cũ.

 

Trong thời kỳ này, Vũng Tàu trải qua nhiều biến động hành chánh lớn, như chuyển thành quận thuộc tỉnh Phước Tuy (1956),rồi lại nâng lên thị xă trực thuộc trung ương mang tên gọi Đặc khu Vũng Tàu (năm 1964). Đứng đầu chính quyền thị xă là thị trưởng kiêm đặc khu trưởng.

Tính đến cuối tháng 4 năm 1975, thị xă Vũng Tàu có tổng cộng 6 phường: Vũng Tàu, Thắng Nhứt, Thắng Nh́, Thắng Tam, Phước Hải và Phước Thắng.

 

VŨNG TÀU THẤT THỦ

 

Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Vũng Tàu là nơi di tản của các đơn vị Quân Lực  Việt Nam Cộng Ḥa từ các nơi đổ về. Trong hai ngày 28-29/4, các lực lượng VC đă tấn công đánh chiếm thị xă Vũng Tàu. Dù cầu Cỏ May đă bị đánh sập, các lực lượng của VC đă tổ chức nhiều đợt vượt sông qua phía Cửa Lấp và giao tranh ác liệt với các lực lượng Quân lực VNCH đang cố thủ tại các cứ điểm cầu Cỏ May, ấp Phước Thành, trường Thiếu Sinh Quân và khách sạn Palace. Cuộc chiến kết thúc lúc 1h trưa ngày 30 tháng 4, sau khi toán sĩ quan cố thủ tại khách sạn Palace buông súng.

 

 

CUỘC Di TẢN CỦA HẢI QUÂN QLVNCH RA CỬA VŨNG TÀU

 

Vào thời điểm tháng 4-1975 sau khi pḥng tuyến Phan Rang và Xuân Lộc bị tan vỡ, nhiều sư đoàn Cộng quân đă có mặt quanh Sài G̣n thắt chặt ṿng vây. T́nh h́nh chiến sự bi quan đến độ ngay đối với những quan sát viên lạc quan nhất, việc Sài G̣n thất thủ chỉ c̣n là vấn đề thời gian rất gần. Nhưng trong lúc t́nh thế hỗn loạn, các quân binh chủng khác đă bị thiệt hại khá nặng, chỉ riêng Hải Quân tương đối vẫn c̣n đầy đủ sức mạnh cũng như tinh thần chiến đấu vững chắc. 

 

Ngoài biển, hạm đội vẫn hoàn toàn làm chủ hải phận, tiếp tục trợ giúp đắc lực quân binh chủng bạn; trong sông, các giang đoàn c̣n giữ vững những thủy lộ huyết mạch, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trước t́nh h́nh quân sự nguy kịch như chỉ mành treo chuông, lại thêm áp lực chính trị v́ tin đồn đảo chánh, Hải Quân cần có cấp chỉ huy mới để đáp ứng với đ̣i hỏi của t́nh thế. Tân Tư Lệnh trước hết phải là người đáng tin cậy để pḥng ngừa đảo chánh, đồng thời đủ khả năng và uy tín điều động các đơn vị dưới quyền bảo toàn chủ lực, thi hành bất cứ nhiệm vụ nào có thể được trao phó trong tương lai. Lúc đó, Phó Đô Đốc (PĐĐ - cấp tướng 3 sao) Chung Tấn Cang là người duy nhất hội đủ các điều kiện cần thiết này.

https://conganhuynh.com/VungTau_files/image002.png

Phó đô đốc Chung Tấn Cang

Ngày 24 tháng 3 năm 1975 PĐĐ Cang được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định làm Tư Lệnh Hải Quân, thay thế Đề Đốc (cấp tướng 2 sao) Lâm Ngươn Tánh. Sự kiện một tướng lănh được coi như rất gần gũi với Tổng Thống Thiệu, gấp rút trở về chỉ huy Hải Quân không phải là chuyện t́nh cờ, mà coi như được ủy thác nhận lănh trách vụ chống đảo chánh, đồng thời bảo toàn chủ lực Hải Quân, bước đầu chuẩn bị cho kế hoạch chiến đấu lâu dài trong trường hợp thủ đô Sài G̣n thất thủ.

 

Lễ bàn giao và nhậm chức và tân Tư Lệnh diễn ra đơn giản và gấp rút vào buổi trưa cùng ngày, ngay trong văn pḥng Tư Lệnh trên lầu hai của ṭa nhà Bộ Tư Lệnh trông xuống bến Bạch Đằng, với sự tham dự của một số Tư Lệnh Vùng. Trước đó, PĐĐ Cang giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô; ông là một trong những tướng lănh ủng hộ lập trường cứng rắn không thỏa hiệp với Việt Cộng của Tổng Thống. Có n ơi guồn tin cho rằng nếu c̣n giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, ông sẽ không ngần ngại ở lại Sài G̣n tử thủ.

 

Để đáp ứng với những biến cố bất lợi dồn dập và t́nh h́nh biến chuyển nhanh chóng, tân Tư Lệnh bắt tay ngay vào những việc phải làm. Chỉ vài ngày sau khi nhận quyền chỉ huy, ông đă thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm (LLĐN) 99 gồm nhiều giang đoàn thiện chiến do HQ Đại Tá Lê Hữu Dơng (khóa 8 HQ/NT) làm tư lệnh. Đại Tá Dơng nổi tiếng về can đảm và mưu lược được thượng cấp tín nhiệm, thuộc cấp mến phục, lại có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trong sông từ thời c̣n phục vụ trong Giang Lực. Lực lượng giang đĩnh hùng mạnh này hoạt động thường trực tại vùng sông Soài Rạp, Vàm Cỏ gần Long An có nhiệm vụ ưu tiên “chống đảo chánh”, đồng thời pḥng thủ mặt Tây Nam thủ đô và bảo đảm an ninh tuyệt đối thủy lộ mấu chốt sông Ḷng Tào là cửa ngơ đưa hạm đội ra biển. Sau này tại hải ngoại, PĐĐ Cang xác nhận:” Thành lập Lực-Lượng Đặc Nhiệm 99, giao cho Đại Tá Lê Hữu Dơng chỉ huy; với mục đích là, nếu có đảo chánh, lực lượng này sẽ hỗ trợ cho những lực lượng khác chống đảo chánh" (Trích Điệp Mỹ Linh).

 

Về mặt bảo toàn lực lượng, Hải Quân không thể để các chiến hạm nằm bất động trong bầu không khí đe dọa ngột ngạt của thủ đô như những ḱnh ngư ép ḿnh trong hồ cạn. Hạm đội phải được đưa ra khơi, trước hết để khỏi rơi vào tay Cộng quân, sau đó c̣n có thể hoạt động hữu hiệu trong tương lai, chẳng hạn như đưa chính phủ di tản về miền Tây tiếp tục chiến đấu, với Hải Quân là nỗ lực chính như dự tính sẵn có của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

 

Sau khi thành lập LLĐN 99, Phó Đô Đốc Cang lập tức thảo kế hoạch bảo toàn tối đa tiềm lực hạm đội bằng cách đưa các chiến hạm ra biển thay v́ tập trung tại Sài G̣n dễ bị phong tỏa nếu thủy lộ sông Ḷng Tào bị cắt đứt. Ngoài biển, chiến hạm có rộng đường vùng vẫy, hoặc tập trung tại những nơi an toàn như Côn Sơn, Phú Quốc chờ biến chuyển mới hay về Miền Tây khi có lệnh. PĐĐ Cang nói: “Lúc đó tôi có ư định đưa gia đ́nh binh sĩ Hải-Quân ra tạm trú tại Phú-Quốc để binh sĩ yên ḷng trở lại miền Tây chiến đấu”(Trích Điệp Mỹ Linh). Những toan tính này khi tŕnh bày với Tổng Thống Dương Văn Minh đều được hoàn toàn chấp thuận. Đô Đốc Cang cùng với bộ tham mưu từ lâu chủ trương không chấp nhận liên hiệp với Việt Cộng. Chung quanh ông là những tướng lănh chống Cộng, không liên hiệp với Cộng Sản như Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú. Nhiều nguồn tin đáng tin cậy cho rằng nếu không có lệnh buông súng, một số lớn quân nhân các quân binh chủng sẽ về miền Tây tiếp tục chiến đấu.

 

Ngày 21-4, Tổng Thống Thiệu từ chức và sau đó rời VN ngày 25-4 cùng với cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc.

 

Trong lúc ráo riết chuẩn bị kế hoạch đưa chiến hạm ra khơi, đột nhiên xẩy ra một hay đổi quan trọng. Vào buổi chiều ngày 26-4, có công điện của thượng cấp chỉ định HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh/Hành Quân Biển thay thế HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn trong chức vụ Tư Lệnh Hạm Đội. Lệnh thượng cấp chỉ thị bàn giao chức vụ Tư Lệnh Hạm Đội trong ṿng 24 giờ; v́ vậy lễ bàn giao được cử hành ngay vào lúc chiều tối 26-4 giữa Đại Tá Sơn và Đại Tá Khuê, hai người bạn cùng khóa 4 Hải Quân/NT.

 

Ngày 28-4 Tổng Thống Dương Văn Minh nhậm chức. Vào hồi 5 giờ chiều cùng ngày, Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Tư Lệnh Phó Hải Quân thay thế TL/HQ vào Dinh Độc Lập họp khẩn. Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng Thống Dương Văn Minh nói rơ để Hải Quân hoàn toàn tự quyết định về những dự tính trong tương lai; ông chỉ gửi theo các tướng Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Hữu Xuân và con rể là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài. Như vậy, tuy không nói rơ, nhưng qua việc gửi gấm một số tướng lănh thân cận, Tổng Thống Minh đă gián tiếp "khuyến khích" Hải Quân mau rời Sài G̣n trước khi quá trễ.

 

Sau nhiều ngày chuẩn bị, cuối cùng lệnh di tản hạm đội được chính thức ban hành vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4 tại Sài G̣n. Hạm đội dự trù sẽ ra khơi vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày và sẽ hoàn tất vào lúc 10 giờ đêm. Điểm hẹn là Côn Sơn. Thủy thủ đoàn được phép về nhà sắp xếp trong ṿng 2 tiếng đồng hồ, có thể đem theo gia đ́nh. Lúc này, quân đội VNCH vẫn c̣n chiến đấu nên mục đích của cuộc di tản là đưa tất cả những chiến hạm khiển dụng ra khỏi Sài G̣n để bảo toàn lực lượng, c̣n đi đâu, làm ǵ sẽ tùy thuộc vào t́nh h́nh và hoàn cảnh. Rút kinh nghiệm của những cuộc di tản trước đây từ Cao Nguyên, Miền Trung, Xuân Lộc v.v… “lực lượng” không chỉ đơn giản là binh sĩ và chiến cụ, mà c̣n thêm gia đ́nh binh sĩ và cả thường dân. Những chiến hạm ra khơi, tới Côn Sơn phần lớn xuất phát từ Sài G̣n; tuy nhiên c̣n có nhiều chiếc khác đi từ Vũng Tàu, Phú Quốc, Cần Thơ và cả quần đảo Trường Sa.

 

Hầu như tất cả các chiến hạm khiển dụng đă an toàn ra khơi, mang theo tổng cộng gần 30,000 quân dân, một thành quả đáng kể v́ kế hoạch đưa chiến hạm ra khơi tuy chỉ được soạn thảo gấp rút trong thời gian ngắn giữa t́nh thế khó khăn, đă hoàn tất tốt đẹp.

 

Huỳnh Công Ân

Cuối tháng tư 2023

 

Tài liệu tham khảo:

-Wikipedia tiếng Việt

-Hải quân VNCH ra khơi 1975 (Điệp Mỹ Linh)