Tưởng nhớ những bạn đồng nghiệp đă đi xa

 

Cuộc đời dạy học tôi không dài v́ những biến cố của đất nước cũng như nhiều sự kiện bất ngờ đến với bản thân. Vừa ra trường (ĐHSP65) hai năm rưởi, tháng 12/1967 đang dạy ở Trà Vinh th́ tôi được gọi đi khoá 27 Thủ Đức, Nhưng v́ số người bị động viẻn lúc đó quá đông tôi nằm trong quân số thặng dư nên măi đến tháng 4 năm 1968 tôi bị đưa ra Đồng Đế, Nha Trang học khoá 2/68 SQTB. Ra trường tôi về sư đoàn 9 bộ binh, bị thương ở Vĩnh Long kế đó được biệt phái về dạy học lại ở Trà Vinh. Đầu niên khoá 1969-1970 tôi được thuyên chuyển về trường Ngô Quyền, Biên Hoà. Năm 1972, tôi dính líu với bạn bè trong một vụ xô xát với một nhân vật có thế lực lúc bấy giờ ở Sài G̣n nên tôi bị trả về quân đội, phục vụ ở tiểu khu Biên Hoà, trách nhiệm an ninh cho cầu Đồng Nai trên xa lộ Sài G̣n-Biên Hoà mất hai năm. Lại được biệt phái lần thứ hai vào cuối năm 1973 về lại Ngô Quyền. Biến cố 30/4/1975 đưa tôi vào các trại cải tạo mất hai năm ba tháng trước khi được thả về dạy trường Trung học Nguyễn Trăi, quận 4, Sài G̣n sáu niên khoá. Năm 1983 tôi vượt biên thất bại và bị bắt nên từ đó giả từ nghề dạy học.

 

Tổng cộng thời gian thực sự dạy học của tôi không quá 14 năm, nhưng những kỷ niệm với nhiều đồng nghiệp thân thiết vẫn c̣n in đậm trong kư ức của tôi nhứt là với những người bạn đă đi xa.

 

Những năm tháng vừa mới ra trường về trường trung học Vĩnh B́nh ở tỉnh lẻ Trà Vinh tôi đă nhập chung nhóm với một số bạn đồng nghiệp như Huỳnh Đạt Bửu (ĐHSP64) dạy triết, Nguyễn Quang Hiền dạy Pháp Văn, Nguyễn B́nh Tưởng (ĐHSP64) dạy sử địa, Lương Văn Kiệt (ĐHSP65) dạy lư hoá, Nguyễn văn Quan (ĐHSP65) dạy Quốc văn, Nguyễn Văn Thành dạy nhạc.

 

Nguyễn Quang Hiền và Huỳnh Đạt Bửu là dân sở tại. Cuối tuần, sau khi quá chén chúng tôi thường nằm ngủ sắp lớp như cá hộp trong pḥng Hiền ở căn nhà của gia đ́nh anh ở đường Quang Trung. Tôi và một số bạn bè cũng thường đánh phé suốt đêm ở nhà cô Tư của Bửu gần cầu Long B́nh. Nguyễn Quang Hiền mất hơn 10 năm nay ở nam Cali. Trước đó, khi sang Mỹ tôi có lái xe lên nhà dưỡng lăo để thăm anh nhưng không gặp v́ hôm đó anh về nhà con gái chơi với các cháu ngoại. Năm 2017, khi đang về chơi Việt Nam được tin Bửu mất tôi đă xuống Trà Vinh đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng ở xă Mỹ Long, Cầu Ngang.

 

Noel năm 2015, vợ chồng tôi cùng anh Lâm Văn Bé (ĐHSP64) ngày xưa là hiệu trưởng trường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Mỹ Tho, bạn đồng môn và đồng khoá với anh Nguyễn B́nh Tưởng từ Montreal sang Toronto để viếng thăm anh lần cuối. Trước đó vợ chồng tôi thường sang ở chơi với vợ chồng anh và đă dự hôn lễ của con gái anh. Tôi c̣n nhớ khi anh Tưởng về làm giám học trường trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh ở Sài G̣n, ngay sau tiệc cưới của anh tổ chức tại trường, anh để cô dâu ờ lại lấy xe hơi chở bạn bè chúng tôi chạy sang quận 8 nhậu tiếp. Khi xe chạy đến cầu chữ Y th́ bị cảnh sát dă chiến chận lại v́ đă quá giờ giới nghiêm, may nhờ viên đại uư đại đội trưởng đơn vị cảnh sát gác cầu này là học tṛ anh Phan Ngọc Răng (ĐHSP64) dạy Vạn vật, trước là hiệu trưởng trường Hoàng Diệu ở Sóc Trăng (nay đă mất) cùng ngồi trên xe nên chúng tôi không bị giữ lại chỉ phải quay xe trở về trường. Một kỷ niệm khác với Nguyễn B́nh Tưởng là lần anh Tưởng dùng chiếc xe jeep chở chúng tôi đi Thủ Thừa dự hôn lễ bác sĩ Nguyễn Trung Nghĩa, em của anh Nguyễn Trung Hiếu (ĐHSP67) dạy vạn vật ở Trà Vinh. Bận về lại Sài G̣n trên quốc lộ 4 khi c̣n ngà say anh đ̣i chạy đua với xe đ̣ nhưng chúng tôi sợ lạnh gáy ngăn anh lại.

 

Cũng trong những lần Việt Nam, tôi thường cùng Trịnh Văn Dĩ ((ĐHSP67), dạy toán, bạn thân của Nguyễn Văn Lư (ĐHSP67) dạy lư hoá cùng dạy ở Trà Vinh lúc trước, đến thăm vợ chồng Lư ở Vĩnh Kim, Mỹ Tho. Lư mất khi tôi đang ở Canada. Khi c̣n sinh tiền, dù lớn hơn tôi 2 tuổi nhưng ra trường sau tôi 2 năm, Lư vẫn xem tôi là đàn anh và thường bênh vực tôi trong bất cứ vụ tranh chấp nào.

 

Lương Văn Kiệt là một người bạn đồng nghiệp của tôi mất sớm nhứt trước 1975 khi tuổi đời chưa đến 30. Anh dạy ở Trà Vinh được 2 niên khoá th́ được đổi về trường Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long. Trong một lần dẫn học sinh trường này đi du ngoạn anh bi tai nạn lưu thông thiệt mạng. Kỷ niệm về anh là năm anh đă đổi về Vĩnh Long, anh được cử coi thi Tú Tài ở Trà Vinh và anh được chúng tôi nhường pḥng trọ cho anh ở v́ chúng tôi bận đi coi thi ở chỗ khác. Sau ngày thi, Kiệt về Vĩnh Long, chúng tôi về pḥng mở lá thơ cảm ơn của anh và không khỏi bật cười khi đoạn kết anh viết: Dù sao cũng cảm ơn tụi bây nhường cái “bẩn xá” này cho tao. Anh đă nhận xét đúng về những anh chàng độc thân lười biếng của chúng tôi lúc đó.

 

Năm 2017 hay 2018 không nhớ rơ tôi về Việt Nam chơi và đang trên xe đ̣ từ Đà Lạt về Sài G̣n th́ được Dĩ gọi báo tin Quan mất Tối đó vừa về tới Sài G̣n tôi cùng anh Nguyễn Thành Hải (ĐhSP65), bạn đồng môn và đồng khoá với Quan đến viếng anh ấy ở B́nh Thạnh. H́nh ảnh một người bạn đồng nghiệp cùng khoá xuống nhận nhiệm sở một lượt ở một tỉnh nhỏ miền tây sau khi ra trường với những đức tính nghiêm nghị, nói năng chậm rải, hiền lành và chung vui vừa phải không quá đà với bạn bè, vẫn đọng lại trong kư ức của tôi.

 

Riêng Thành nhạc, tốt nghiệp trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài G̣n, mà học tṛ thường gọi là thầy Thành nhỏng v́ người anh gầy và có dáng đi nghiêng người về phía trước. Anh có ngón đàn guitar thật độc đáo nhứt là khi anh độc tấu các bản nhạc cổ điển. Trong những lần về Việt Nam chơi, tôi gặp anh hai lần, một lần khi tôi từ Trà Vinh ghé ngang Vĩnh Long thăm anh và mời anh đi ăn trên chiếc tàu nhà hàng trên sông. Lần đó tôi có đến nhà anh bên hông trường Tống Phước Hiệp. Khi c̣n dạy ở trung học Vĩnh B́nh, mỗi lần tôi cùng các bạn đồng nghiệp ở Trà Vinh lên Vĩnh Long chơ, tối đếni nằm sắp lớp ngủ ở nhà Thành, lúc đó là một căn phố nhỏ hẹp. Sau này Thành lập gia đ́nh bới một cô giáo tốt nghiệp trường Sư Phạm Vĩnh Long và cất lại căn phố này thành một ngôi nhà nhiều tầng khang trang và vợ Thành mở một tiệm bán cơm tấm. Khi đó, tôi mừng cho bạn ḿnh đă có cuộc sống sung túc. Lần gặo gở thứ hai là khi Thành lên Sài G̣n khám bệnh, tôi mời Thành đi ăn hải sản ở đường Vĩnh Khánh, quận tư. Sau đó một hai năm, vợ Thành gọi sang Canada cho tôi biết Thành đă qua đời.

 

Khi về trường Ngô Quyền, Biên Hoà, hiệu trưởng lúc đó là ông Phạm Đức Bảo biết tôi ở Sài G̣n nên sắp cho tôi 17 giờ trong hai ngày đầu tuần nên chiều thứ ba là tôi về lại Sài G̣n và có 5 ngày thảnh thơi.

 

V́ đa số giáo sư ở trường Ngô Quyền là người Sài G̣n, giờ dạy được sắp xen kẻ nhau nên dù cùng dạy một trường nhưng nhiều khi chúng tôi chỉ biết tên nhau mà chưa hề gặp nhau. Hầu như trường không có họp toàn bộ giáo sư, nếu có thông báo ǵ th́ ghi lên một tấm bảng để trong pḥng giáo sư cho mọi người biết. Do đó, trái với lúc dạy ở Trà Vinh, tôi cùng các bạn đồng nghiệp thân thiết ăn chung, chơi chung và ngủ chung nên tôi có ít bạn thân dạy chung ở đây, Duy, có một nhóm nhỏ thầy giáo trẻ gồm tôi,và các anh Nguyễn Phi Long dạy toán, Kiều Vĩnh Phúc dạy Anh văn, Tô Văn Phú (ĐHSP65) dạy vạn vật, Trần Văn Phúc dạy sử địa và Trần Thái Hùng (ĐHSP67) dạy toán chơi khá thân với nhau.

 

Trong năm anh bạn đó, anh Long hiện ở Texas, Hoa Kỳ và Hùng ở Sài G̣n, Việt Nam c̣n 3 người bạn kia đă quá văng. Kiều Vĩnh Phúc sau khi vượt biên sang Anh làm cho đài BBC, khi về hưu anh di dân sang Cali, Mỹ và mất ở đó. C̣n hai anh Phú và Phúc mất khi nào và ở đâu tôi không biết chỉ nghe tin qua trang mạng của hội Cựu Học Sinh Ngô Quyền bên Mỹ.

 

Trái với ở trường Ngô Quyền, trong thời gian dạy trường tư ở Sài G̣n tôi quen thân với nhiều bạn đồng nghiệp hơn.

 

Nhờ dạy trường tư thục Tân Văn ở đường Trần Quư Cáp tôi quen với các anh Lâm Vơ Huỳnh (ĐHSP61) dạy Pháp văn, giám đốc Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng ở quận 5, Chợ Lớn; anh Lê Tấn Lộc (ĐHSP61) dạy triết, cựu hiệu trưởng trường Trịnh Hoài Đức B́nh Dương sau làm trưởng Khu 3 Học Chánh; anh Tôn Thất Trung Nghĩa dạy vạn vật và công pháp quốc tế ở trường Luật; anh Tạ Kư, dạy quốc văn ở trường Pétrus Kư. Tôi là “bạn ve chai” (“camarade de bouteille” theo cách nói của anh Huỳnh) của các anh ấy chứ thật ra tuổi đời và số năm dạy học tôi kém xa các anh ấy. Đêm nào khi dạy xong lớp đêm ở trường Tân Văn, chúng tôi cũng kéo nhau ra kiosque của chị tư Hoa Nở ở chợ Đũi để “làm vài chai” rồi nghe anh Tạ Kư khi đă ngà ngà ngâm thơ. Giọng ngâm của nhà thơ xứ Quăng nghe sao buồn năo ruột. C̣n anh Huỳnh th́ kể chuyện tiếu lâm. Tôi c̣n nhớ trong một kỳ họp mặt hội Cựu Giáo Chức chúng ta ở Montréal, anh Huỳnh đọc hai câu thơ:

“Anh đi công tác Plei,

Ku dài thường thược đến nay chưa về”

làm quư nam hội viên cười sảng khoái trong khi quư nữ hội viên đỏ mặt.

 

Một tối, tôi dạy một lớp đêm ở trường Tân Việt trên đường Yên Đỗ, khi tôi vẽ một ṿng tṛn trên bảng đen và quay xuống hỏi cả lớp: “Các anh chị có thấy ǵ không?” th́ có tiếng nói lớn bên ngoài;” Có, thấy cái chai”. Tôi quay nh́n ra thấy anh Tôn Thất Trung Nghĩa dạy lớp bên cạnh đang tỳ tay trên thành cửa sổ lớp tôi và nói vọng vào.

Sau ngày 30/4/1975, anh Tạ Kư mất ở miền tây khi t́m đường vượt biên. Anh Tôn Thất Trung Nghĩa định cư ở Ư và mất bên đó. C̣n anh Lâm Vơ Huỳnh mất ở Montréal, Canada năm 2017.

 

Năm 1972, anh Lê Kim Luyện mở trường trung học tư thục Đức Chính ở trên đường Bùi Viện gần góc Đỗ Quang Đẫu. Anh mời tôi về dạy toán các lớp 11 và 12 ở đó. Hiệu trưởng là anh Bửu Ái, cử nhân Pháp văn, sau 1975 anh định cư ở New York, Hoa Kỳ. Giám học là anh Trần Cao Đức, anh của các giáo sư Trần Cao Tần và Trần Cao Lộc. Tổng giám thị là thầy Huỳnh Văn Cô, từng là giám thị trường Nguyễn văn Khuê và trường Tán Văn.

 

Dạy ở trường Đức Chính tôi quen thêm vài đồng nghiệp khác như anh Trịnh Quốc Thông (ĐHSP64) dạy lư, Đỗ Quang Tiên dạy hoá, Lê Nguyên dạy lư, Trần Thế Anh dạy toán, Nguyễn Hồng Ngự dạy toán, Mai Khắc Bích dạy sử địa…

 

Anh Lê Kim Luyện người Nha Trang, tánh t́nh phóng khoáng, lúc đó anh ở với một người vợ trẻ hơn anh rất nhiều, nhà cô ta ở trong một con hẻm đường Bùi Viện gần trường Đức Chính. Anh là bạn học ở trường Yersin, Đà Lạt với ông Hoàng Đức Nhă, cố vấn đặc biệt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và chuẩn tướng Dương Mộng Bảo, chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Trung Ương ở đường Tô Hiến Thành. Năm 1972, khi biết tôi bị trả về quân đội, anh Luyện có dẫn tôi đến gặp tướng Bảo (lúc đó c̣n là đại tá) để nhờ can thiệp giữ tôi ở lại Bộ Giáo Dục nhưng không kết quả.

 

Tuy trẻ hơn anh Luyện nhiều nhưng tôi là “ camarade de bouteiile” của anh nên giờ nghỉ giải lao khi đổi lớp anh thường kéo tôi và một vài bạn khác qua quán Ba Thừa cạnh trường “làm” một vài chai bia. Đường Bùi Vện ngày xưa nổi tiếng là con đường ăn chơi, nhưng không phải kiểu ăn chơi như bây giờ giống ở Pataya bên Thái, đầy tây ba lô và gái điếm. Trên đường Bùi Viện thời đó có hai quán nhậu nổi tiếng là Ba Thừa và Thanh Hải v́ có nhiều món “mồi nhậu” rất ngon. Anh Luyện thích qua quán Ba Thừa v́ có người đẹp tên Dư, con của anh Ba Thừa. Nghe nói lúc đó cô Dư đang cặp kè với một đại uư cảnh sát, nhưng mặc kệ hoa đẹp th́ dập d́u ong bướm gấm ghé. Ngoài hai quán nhậu đó, dọc hai bên đường c̣n nhiều quán bia ôm.

 

Buổi tối, sau khi dạy lớp đêm dành cho công, tư chức và quân nhân ở trường nữ trung học đô thị Cô Giang trên đại lộ Trần Hưng Đạo tôi thường đến kiosque cô Lệ trên đường Đề Thám gần ngả tư quốc tế không hẹn mà sẽ gặp các đồng nghiệp trường Đức Chính để lai rai giải khát dăm chai bia với đậu phọng hay khô mực trước khi chia tay về ngủ.

 

Khi tôi định cư ở Montréal, một người quen gốc Nha Trang cho hay anh Luyên đă mất v́ bệnh.

 

Năm 2011 tôi qua chơi nam Cali, ngày cuối ở đó tôi được biết anh Trịnh Quốc Thông đang ở thành phố Long Beach, không c̣n thời gian để đến gặp người bạn cũ, tôi chỉ c̣n cách gọi phone hỏi thăm hứa lần sang nam Cali tới sẽ t́m gặp anh. Nhưng qua năm 2012 tôi được tin anh ấy mất. Trước 1975, anh Thông dạy ở trường Trung Thu của cảnh sát. Anh đi chiếc Deux Chevaux, và thường ghé nhập bọn với chúng tôi, nhưng anh chỉ uống một hai chai rồi bỏ đi trước.

 

Anh Đỗ Quang Tiên cũng vậy, anh uống không nhiều và thân nhứt với anh Trịnh Quốc Thông v́ hai anh dạy chung ở trường Trung Thu. Anh Đỗ Quang Tiên được đồng hoá thiếu tá cảnh sát. Một điều ngẫu nhiên lư thú là anh dạy trường Đức Chính không xa đường Đỗ Quang Đẩu mà Đỗ Quang Đẩu là ông nội của anh. Anh Tiên thất lộc năm 2011 tại Sài G̣n, Việt Nam.

 

Anh Lê Nguyên chỉ dạy trường tư nhưng người ăn tiêu rất rộng rải với bạn bè. Tội nghiệp bà xă và con cái anh v́ thế sống thiếu thốn. Bạn bè khuyên nhủ anh nên bớt tiêu pha nhưng như trong phim bộ Tàu có câu:”Giang sơn dễ đổi nhưng bản tính khó dời”, không ai làm thay đổi được lối sống của anh. Sau ngày 30/4/1975, nhờ cha anh từng hoạt động cho phía bên kia nên anh được làm cán bộ pḥng Giáo Dục quận 5. Lúc tôi bị đi tù cải tạo, vợ tôi đi thăm nuôi tôi có gói thức ăn trong một tờ báo cũ, t́nh cờ tôi đọc trên tờ báo một bài cáo phó đăng tin anh đă từ trần. Khi ở tù cải tạo về, tôi được bạn bè cho biết anh Lê Nguyên mất v́ tai nạn lưu thông. Tôi có đến nhà anh Lê Nguyên đốt nhang cho anh ấy.

 

Cũng như anh Lê Nguyên, anh Trần Thế Anh cũng chỉ dạy trường tư, và cũng ăn xài phong lưu nên vợ con túng thiếu. Khi uống bia với bạn bè, lần nào lúc ngà say anh cũng ngâm hai câu thơ của Thâm Tám:

“Đưa người ta không đưa sang sông,

Sao có tiếng sóng ở trong ḷng”

Sau 30/4/1975, lúc tôi dạy ở trường Nguyễn Trăi, quận 4, v́ lương không đủ sống vợ chồmg tôi mướn chỗ mở một quán nhậu ở đường Đoàn Văn Bơ. Một đêm, vợ chồng tôi đang tất bật lo phục vụ khách th́ một chiếc xích lô đạp dừng trước cửa quán, anh Trần Thế Anh bước xuống xe đến gặp tôi. Anh nói với tôi: “Ân ơi, chiều nay moa đi ăn giỗ ở Tân Thuận. Trên đường về, thấy moa say quá chạy xe lạng quạng một thanh niên chận moa lại nól để anh ta chở dùm moa về nhà. Khi moa xuống giao xe cho anh ta th́ anh ta lấy xe chạy mất. Moa tỉnh rượu ngay khi biết ḿnh bị gạt mất xe. Trong túi không c̣n tiền moa đành gọi xích lô đến đây t́m toa. Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm sau khi miền Nam mất, vợ chồng con cái tôi ở một căn pḥng mướn nhỏ hẹp làm sao cưu mang bạn ḿnh đêm nay nên sau khi trả tiền xe tôi để anh ngồi nghỉ trong quán một lát. Vợ tôi pha cho anh một ly chanh nóng uống giả rượu rồi tôi gọi một xe xích lô khác trả tiền trước dặn chở anh đến nhà một người bạn chung độc thân trọ ở một căn nhà trên đường Cao Thắng v́ nhà anh ở trận Hóc Môn. Sau đó măi lo vật lộn với cuộc sống tôi mất liêm lạc với anh. Sau này, khi tôi về Việt Nam thăm gia đ́nh th́ được tin anh đă mất.

 

Anh Nguyễn Hống Ngự có điểm khác biệt với mọi người là anh đi bộ đến trường để dạy. Thỉnh thoảng anh quá giang xe honda của tôi đi từ trường Đức Chính đến dạy trường khác hay ghé về nhà bạn gái của anh ở khu Nancy. Lúc đó tôi chỉ nghĩ là anh trốn quân dịch nên đi chung xe tôi khi cảnh sát xét giấy tờ tôi tŕnh căn cước quân nhân th́ họ sẽ không hỏi giấy tờ của anh Ngự. Không ngờ sau ngày 30/4/75, anh Ngự lộ diện là người của bên kia và anh lần lượt giữ chức vụ chủ tịch uỷ ban nhân dán phường 9, quận 3 rồi chủ tịch hợp tác xă quận 3. Cách đây vài năm, khi về Việt Nam thăm gia đ́nh, bạn bè cho biết anh Ngự đă mất.

 

Sau năm 1975, tôi về dạy trường Nguyễn Trăi gặp lại anh Mai Khắc Bích. Nhưng sau này anh lâm trọng bệnh, khi về Việt Nam tôi có nhờ một em học tṛ cũ của trường dẫn đến thăm anh. Ít lâu sau anh từ trần.

 

Xin nhại thơ của Vũ Hoàng Chương để tưởng nhớ các bạn đồng nghiệp trường Đức Chính đă quá văng:

“Các anh ơi, lửa tắt, b́nh khô rượu

Đời vắng các anh rồi, say với ai?”

 

Sau cuộc đổi đời năm 1975, nghề giáo trong chế độ mới không được đăi ngộ xứng đáng. Các đồng nghiệp của tôi, người bỏ nghề đi làm việc khác để kiếm sống, kẻ có phương tiện t́m cách vượt biên sang nước ngoài, ai c̣n ở lại với nghề th́ sống nghèo nàn,cơ cực. Dù ở trong hoàn cảnh nào, khi gặp lại các bạn đồng nghiệp cũ đối với tôi cũng là một niềm vui của tuổi già. Nhưng nghĩ đến các đồng nghiệp quen biết đă ra đi tôi không khỏi ngậm ngùi. Bài viết này như là một nén hương long gởi đến các anh và cầu chúc các anh an b́nh nơi miền vĩnh cửu.

 

Montréal 28/6/2023.