T̀NH THẦY TR̉

 

Tùy bút Huỳnh Công Ân

 

Phần 1: Gặp lại học tṛ cũ

 

“Không thầy đố mầy làm nên”

..........

“Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”

(Ngạn ngữ Việt Nam)

 

Truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam từ xưa đến nay vẫn được mọi người ǵn giữ. V́ vậy, dù tới nay tôi đă xa bục giảng gần 40 năm nhưng mối t́nh cảm sư đệ của tôi với các em học sinh cũ vẫn luôn nồng ấm. Nói thật ḷng, cũng nhờ sự phát triền của mạng internet nên mọi người có thể liên lạc với nhau dù mỗi người ở một nơi xa cách nhau vạn dặm.

 

Nhớ sau ngày 30/4/75, sau khi đi “học tập cải tạo” về, tôi lên thăm lại Biên Hoà nơi tôi đă gắn bó với nghề dạy học 6 năm trời. Tôi lang thang trong thành phố Biên Hoà mà cảm thấy ḿnh là kẻ xa lạ. Trong số những người đi cùng chiều hay ngược chiều với tôi, tôi không biết ai là học tṛ cũ của ḿnh.

BH.jpg

Họp mặt với học tṛ Biên Ḥa

Bẵng đi hơn hai mươi năm trời ở nước ngoài, năm 2008 tôi về thăm lại quê hương mong t́m gặp những thân t́nh cũ. Tôi tổ chức một tiệc sinh nhật ở khách sạn nhờ người nhà t́m mời bạn bè cũ của tôi rồi nhờ họ t́m mời các học tṛ cũ của tôi. Kết quả, ngoài người thân trong gia đ́nh tôi, một số đồng nghiệp ở trường Nguyễn Trăi và trường Vĩnh B́nh, tôi chỉ gặp được một số em học tṛ cũ ở Trà Vinh. Tôi không gặp được một em học sinh nào của tôi ở trường Ngô Quyền, Biên Hoà và nhứt là không gặp một em học sinh trường Nguyễn Trăi nào cả mặc dù tôi đang ở quận 4.

04.jpg

Họp mặt với các học sinh Nguyễn Trăi

T́nh cờ năm 2009, qua email em Nguyễn Hồng Đức, lúc đó là bác sĩ trưởng khoa ngoại trú ở bệnh viện Hồng Bàng cho biết em là học sinh cũ của tôi ở trường trung học Ngô Quyền Biên Hoà trong đầu thập niên 1970. Năm sau, khi tôi về Việt Nam, Đức đem xe hơi đến đón tôi đưa lên Biên Hoà gặp một số em học sinh cũ khác của tôi..

Măi đến năm 2013, cũng qua email, em Nguyễn Thị Diễm, cựu học sinh trường trung học Nguyễn Trăi liên lạc được với tôi . Năm đó, khi tôi về Việt Nam một số em như Nguyệt, Hưng, Bích...hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên ở đường Hoàng Diệu. Thật t́nh mà nói tôi không nhận ra được em nào v́ suốt cuộc đời dạy học tôi có hàng ngàn học tṛ cũ làm sao tôi nhớ hết, nhứt là khi học với tôi các em c̣n là những thiếu niên 15, 16 tuổi mà nay em nào cũng đă qua tuổi trung niên. Nhưng t́nh cảm thầy tṛ ngày xưa giờ đây khắn khít hơn v́ các em đă trải qua những thăng trầm của cuộc sống như tôi nên chúng tôi dễ thông cảm hơn và tôi xem các em như những người bạn vong niên. Ngày xưa, tôi truyền thụ kiến thức chuyên ngành cho các em, nghĩa là chỉ là một sự trao đổi một chiều. Ngày nay, nếu tôi có những tâm t́nh kể lại cho các em th́ các em cũng có những trải nghiệm cuộc sống nói cho tôi nghe.

 

Từ đó, mỗi lần về Việt Nam tôi không c̣n thấy lạc lỏng như những năm mới về. Khi th́ các em học sinh cũ trên Biên Hoà mời lên dự buổi họp mặt của các em, khi th́ các em ở Trà Vinh mời xuống chơi. Nhứt là các em trường Nguyễn Trăi ở ngay quận nhà, cách một hai bữa lại mời tôi ra uống cà phê tán gẫu với các em, thỉnh thoảng các em tổ chức họp mặt tại các nhà hàng hay đi chơi xa không quên mời tôi tham dự.

 

 

TV.jpg

 

Hội ngộ học sinh Trà Vinh ở Mỹ

 

 

Duy chỉ có các em cựu học sinh Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng là tôi chưa gặp lại em nào từ năm 1975 tới nay. Thật đáng tiếc.

 

Tôi thấy ḿnh được các em học sinh cũ ưu ái v́ các em đă tâm niệm câu “nhứt tự vi sư, bán tự vi sư” và từ đó cảm thầy ḿnh vô vàn hạnh phúc.

 

Nhưng cũng v́ đó mà tôi cảm thấy áy náy v́ ở thế hệ tôi giữa thầy tṛ c̣n có sự ngăn cách. “Quân, sư, phụ” là những biểu tượng tôn kính của ngày xưa vẫn c̣n phổ biến trong giai đoạn tôi c̣n là học sinh. Tôi nhớ hồi c̣n học tiểu học, mỗi lần t́nh cờ gặp ông thầy ngoài đường tôi sợ run, không dám chạm mặt, có khi c̣n t́m cách lẫn tránh.

 

Bây giờ khi đă làm thầy tôi mới thấy tiếc ḿnh đă không được gần gũi với các ông thầy của ḿnh một cách cởi mở như thế hệ sau này. Giờ đây, h́nh ảnh những ông thầy của tôi lần lượt hiện ra trong kư ức như một cuốn phim quay ngược thời gian.

 

Bây giờ khi đă làm thầy tôi mới thấy tiếc ḿnh đă không được gần gũi với các ông thầy của ḿnh một cách cởi mở như thế hệ sau này. Giờ đây, h́nh ảnh những ông thầy của tôi lần lượt hiện ra trong kư ức như một cuốn phim quay ngược thời gian.

 

Phần 2: Các ông thầy của tôi

 

“Trọng thầy mới được làm thầy”

(Ngạn ngữ Việt Nam)

 

 

Ở bậc tiểu học, tôi không nhớ hết những ông thầy của ḿnh ở trường tiểu học Cao Văn, đường Tôn Đản gần ngả ba giáp với đường Trịnh Minh Thế, tuy mỗi lớp chỉ học với một thầy. Tôi chỉ nhớ có học với cậu tư tôi và thầy Năm tức là ông đốc (nói tắt chữ đốc học dịch từ tiếng Pháp directeur de l’école). Như tôi đă nói ở phần trước, ở thế hệ tôi và ở cấp tiểu học, học sinh rất sợ ông thầy, sợ hơn cha ḿnh không phải v́ bị thầy đánh phạt khi phạm lỗi hay không thuộc bài mà v́ các ông thầy rất nghiêm khắc.

Nhà-văn-Thẩm-Thệ-Hà-2.jpg

Thầy Thẩm Thệ Hà

 

Sau khi đậu bằng tiểu học năm 1955, tôi học ở trường trung học Nguyễn Văn Khuê ở trên đường Nguyễn Thái Học gần chợ Cầu Muối. Ở trung học, tôi học với nhiều thầy, mỗi thầy phụ trách một môn. Do đó, thời gian đă quá lâu tôi không c̣n nhớ hết tên các ông thầy của tôi. Ở bậc trung học đệ nhứt cấp (từ lớp đệ thất đến đệ tứ), tôi nhớ có học với thầy Đức môn quốc văn và Hán Văn. Thầy chỉ có bằng tú tài Hán Việt nhưng dạy môn quốc văn rất hấp dẫn nên ảnh hưởng đến sở thích văn chương của tôi sau này. Tôi cũng có học quốc văn với thầy Thẩm Thệ Hà (về sau nghe nói thầy vào bưng) và thầy Lưu Trung Khảo. Năm 2014 tôi sang nam Cali dự buổi họp mặt toàn thế giới của hội cựu học sinh Nguyễn Trăi có gặp lại thầy và chụp một tấm h́nh với thầy. Sau đó, tôi được tin thầy mất.

LuuTrungKhao.jpg

Thầy Lưu Trung Khảo và tôi

 

Suốt thời gian học bậc đệ nhứt cấp, sức học tôi tầm thường v́ ham chơi hơn ham học. Tôi chỉ thích học môn quốc văn và địa lư. Tôi thích vẽ bản đồ, tôi mua tập vỡ giấy cứng để vẽ nộp thầy và lần nào cũng được 19 hay 20 điểm (ngày trước thang điểm là 20). Nhờ thích môn địa lư mà sau này tôi rành địa lư các nước trên thế giới hơn cả một người bạn đồng nghiệp của tôi dạy môn sử địa . Mỗi khi thi đọc tên thủ đô các nước nhứt là các nước ở Phi Châu th́ anh bạn tôi phải chịu thua tôi.

 

Thời đó, Pháp Văn là ngoại ngữ chính học sinh phải học từ khi c̣n ở bậc tiểu học. Trong kỳ thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp, thí sinh phải làm một bài luận văn bằng tiếng Pháp mô tả hay kể chuyện và một bài dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Tôi c̣n nhớ đề thi niên khoá 1958-1959 bài luận tiếng Pháp bắt thí sinh mô tả một quán trọ (Décrivez une auberge) mà có nhiều người c̣n chưa hiểu nghĩa chữ auberge là ǵ!!! Đi thi về tôi đưa tờ nháp cho cậu tôi, trước học chương tŕnh Pháp coi lại và tôi bị cậu chê là viết sai tùm lum. Như đă nói trên, ở tuổi 14-15, v́ ham chơi nên học kém, tôi rớt kỳ thi đó. May mắn thời đó, mỗi kỳ thi được tổ chức hai kỳ, nếu rớt kỳ thứ nhứt th́ sẽ thi lại kỳ thi thứ hai cách sau độ 3 tháng. Năm đó tôi không được nghỉ hè, phải học lớp luyện thi cũng tại trường Nguyễn Văn Khuê.

 

Thầy Đinh Văn Lô (sau là hiệu trưởng trường Cần Giuộc) chỉ cho học sinh phương pháp giải toán động tử bằng cách lập bảng rất hay. C̣n thầy dạy Pháp văn hướng dẫn cách làm bài luận bằng tiếng Pháp đơn giản và ít bị lỗi văn phạm. Nhờ vậy khoá thi kỳ 2 tôi đậu. Cám ơn các thầy.

NguyenVy.jpg

Thầy Nguyễn Vỹ

 

Thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi có đà và bắt đầu ham học. Năm đệ tam (lớp10), cũng ở trường Nguyễn Văn Khuê tôi học toán với thầy Nguyễn Ngọc Ảnh (anh họ thầy Nguyễn Văn Khuê), quốc văn với thầy Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm tạp chí Phổ Thông. Thầy Vỹ mất trong một tại nạn lưu thông trên tuyến đường Sài G̣n Mỹ Tho khi xuống Mỹ Tho dạy học. Tôi học lư hoá với thầy Hà Huy Phiến, Pháp văn với thầy Kiều Công Gia...Năm đệ nhị tôi học với những thày nổi tiếng ở các trường tư như thầy Phạm Huy Ngà dạy h́nh học không gian, thầy Kiều Thế Đức dạy Đại Số, thầy Trương Đ́nh Ngữ dạy Vật Lư, thầy Hà Như Chi dạy quốc văn. Thầy Hà Như Chi là dân biểu quốc hội. Mỗi lần phát bài làm nghị luận văn chương, tôi đều được điểm cao nhứt và bài làm của tôi được đọc cho cả lớp nghe. Ban đêm, tôi học thêm lớp Anh Văn mở tại trường với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ có giờ luyện giọng với một người Mỹ.

HoangThiTho.jpg

Thầy Hoàng Thi Thơ

 

Sau 1975, khi tôi mở quán ăn ở đường Cô Giang, gần chợ Cầu Muối, một hôm bạn tôi đi với thầy Trương Đ́nh Ngữ đến quán tôi ăn uống. V́ thầy Ngữ dạy chung với bạn tôi ở trường Lê Thị Hồng Gấm ( trước 1975 là trường Regina Mundi) nên gọi thầy Ngữ bằng anh, nhưng tôi vẫn xưng hô với thầy bằng thầy và em. Rất tiếc, có một lần thầy Ngữ qua Canada thăm các bạn tôi mà họ không báo cho tôi để gặp thầy. Nay thầy đă mất.

 

Về thầy Phạm Huy Ngà, tôi có đọc trên mạng một người học tṛ cũ kể lại rằng sau những chuyến vượt biên thất bại, thầy bị bệnh phải ngồi xe lăn và không c̣n nói được. Tôi nghiệp và thương thầy quá.

 

Năm 1961, tôi đậu bằng Tú Tài 1 dễ dàng ngay khoá 1. Sau đó, tôi nộp dơn vào học lớp đệ nhứt trường công lập Chu Văn An.

 

Trường Chu Văn An theo đoàn người di cư năm 1954 vào Sài G̣n “tạm trú” ở khu vực trường Pétrus Kư. Lúc tôi vào học (niên khoá 1961-1962), trường đă có cơ sở ở gần nhà thờ Ngả Sáu, nhưng thỉnh thoảng lớp tôi quay lại học một vài buổi học ở khu vực trường Pétrus Kư, gần sân banh của trường.Thầy Trần Văn Việt là hiệu trưởng, thầy Nguyễn Văn Kỷ Cương là giám học và thầy Lăng là tổng giám thị. Tôi học lớp đệ nhứt B6. Đa số học sinh ở đây là người Bắc di cư. Trường Chu Văn An và trường Pétrus Kư là hai trường đào tạo các học sinh giỏi nhứt của Sài G̣n nói riêng và Việt Nam nói chung, về sau họ trở thành những cán bộ nồng cốt của miền Nam trong mọi lănh vực.

TranVanViet.jpg

Thầy hiệu trưởng Trần Văn Việt

 

Ở lớp 12 ban toán (ban B), chúng tôi học 7 môn toán: h́nh học, h́nh học giải tích, cơ học, lượng giác, đại số, số học và thiên văn. Số học là môn khó nhứt và h́nh học là môn hấp dẫn nhứt trong chương tŕnh toán lớp 12 B. Suốt năm học tôi say mê với ṿng tṛn 9 điểm và đường thẳng Euler, những phép biến đổi: tịnh tiến, vị tự, đồng dạng, nghịch đảo. Gay go nhứt là phép đồng dạng và kỳ diệu nhứt là phép nghịch đảo biến đường thẳng thành ṿng tṛn và ngược lại. Tôi say mê môn h́nh học đến nỗi cả hơn 800 bài tập trong cuốn Géométrie Élémentaire của Lebossé tôi giải hết, không thoả măn tôi t́m đề toán ở các sách khác để làm. Tết đến, tôi chỉ nghỉ một ngày mồng một, ngày mồng hai tôi đă vào bàn học làm toán. Bởi vậy khi vào thi Tú Tài 2, gặp đề bài toán ḿnh đă từng làm qua tôi chỉ mất một giờ rưởi để làm xong trong khi thời gian thi ấn định là 3 giờ và khi dự thi tuyển vào ban toán trường đại học sư phạm Sài G̣n tôi cũng không lúng túng trước đề thi hóc búa ở đây.

 

Thầy dạy tôi môn h́nh học là một kỹ sư công chánh có nhà ở trong khu thương cảng Sài G̣n, gần cầu Tân Thuận, quận 4. Tôi và một vài bạn học có đến thăm thầy tại nhà. Đó là một căn phố trong cư xá dành cho nhân viên của thương cảng xây dựng từ thời Pháp, lịch sự và quư phái. Thầy mời nước và cho chúng tôi nghe những bản nhạc thính pḥng rất hay.

NguyenVa KyCuong.jpg

Thầy giám học Nguyễn Văn Kỷ Cương

 

Thầy Nguyễn Văn Kỷ Cương, sau này là một thượng nghị sĩ , dạy tôi môn h́nh học giải tích. Thầy định cư ở Toronto, Canada. Có lần tôi từ Montréal sang Toronto chơi và thăm bạn tôi là Nguyễn B́nh Tưởng. Chúng tôi đi ăn quán phở Linh của ca sĩ Giao Linh ở đường College có gặp và chào hỏi thầy ở đó. Thầy Cương lúc đó c̣n sỏi lắm. Ít năm sau tôi nghe tin thầy mất.

 

Thầy Đổ Minh Tiết, một giáo sư toán trẻ tuổi, dạy tôi môn cơ học . Trước đó, khi vào vấn đáp môn đại số trong kỳ thi Tú Tài 1 thầy là giám khảo hỏi bài tôi.

Tôi học Anh Văn với thầy Trần Văn Điền. Thầy là thân phụ của luật sư Trần Thái Văn, từng là dân biểu của tiểu bang California, Hoa Kỳ sau này. Sử gia kiêm kịch tác gia, tác giả Thần Tháp Rùa, thầy Vũ Khắc Khoan dạy tôi môn Sử Kư. Suốt niên khoá, thầy phân tích bài “Nguyên nhân Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ ba” vẫn chưa hết chứng tỏ sự uyên bác của thầy về sử học.

TranDucAn.jpg

Thầy triết Trần Đức An

 

Tôi học triết với thầy Trần Đức An, vạn vật với thầy Nguyễn Văn Long, vật lư với thầy Nguyễn Văn Thi. Thầy Thi lúc đó c̣n đang học bằng cử nhân lư hoá ở đại học khoa học. Thầy ở trong đại học xá Minh Mạng, gần trường Chu Văn An. Nhân một lần trống giờ học, chúng tôi kéo sang thăm thầy ở đó.

 

C̣n những thầy dạy môn khác nhưng rất tiếc, thời gian đă quá lâu tôi không c̣n nhớ được. Xin các thầy thứ lỗi.

 

Hơn 70 năm đă trôi qua kể từ khi tôi mài đủng quần ở các trường Cao Văn, Nguyễn Văn Khuê và Chu Văn An, tôi vẫn không quên công lao những người thầy đă truyền cho tôi những kiến thức và nhứt là nghiệp dĩ “kỹ sư tâm hồn” để đào tạo cho thế hệ sau thành những người có ích cho xă hội. Xin tri ân các ông thầy của tôi.

 

Montréal, ngày 1/5/2021