Tỏng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ
tướng Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam
Hồi ký của tùy viên Tướng Trần Thiện
Khiêm – Nguyễn Tấn Phận .
Phần I .
Lời tác giả .
Mấy lúc gần đây báo chí
Việt Nam, các đài phát thanh có chương trình Việt ngữ ở
khắp nơi vẫn còn đề cập đến
chuyến ra đi của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu do người ngoại cuộc kể. Chúng ta thấy có nhiều bức tranh vẽ khác nhau về chuyến đi này tùy theo
người kể và cũng tùy ở người viết.
Để có bức tranh trung thực
hơn, lần này diễn tiến chuyến
đi do chính người trong cuộc kể lại; câu chuyện cũng đã được phối kiểm,
đối chiếu qua nhiều tài liệu, hồi ký, tường thuật của những nhân vật Việt Nam và Hoa Kỳ có mặt trong chuyến đi cũng như có trách nhiệm và liên hệ trực tiếp trong thời
điểm lịch sử ấy.
Nhân lúc nhàn rỗi, giở lại chồng giấy
cũ úa màu, tình cờ tìm thấy bản tin của
báo San Jose Mercury News (San Jose, California)
nói về chuyến
di tản của Tổng Thống Marcos gợi cho tôi nhớ lại chuyến đi của Tồng Thống
Nguyễn Văn Thiệu cách
đây hơn ba mươi năm.
Báo San Jose Mercury News đề ngày 26 tháng 2 năm 1986 đăng tin Tổng Thống Ferdinand Marcos cùng đoàn tùy tùng được Không Lực Hoa Kỳ di tản
ra khỏi dinh Tổng Thống ở Manila một cách an toàn sau một thời gian có nhiều xáo trộn chính trị.
Nguyên văn bản tin viết như sau:
“Marcos từ Guam đến Hawaii ngày 26 tháng 2 năm 1986. Sau 13 tiếng đồng hồ dừng lại
ở đảo Guam, chiếc C141 của Không Lực Hoa Kỳ chở ông Marcos
và đoàn tùy tùng đã rời căn cứ quân sự Anderson Air Base lúc 5:54 giờ PST trong cơn mưa to và đã
đến Hawaii sau
8 giờ bay. Cùng tháp tùng Tổng Thống Marcos có vợ ông là bà Imelda; tướng Fabian Ver, một
cộng sự viên đắc lực và cũng là tướng Tư Lệnh quân đội Phi và vợ ông ta. Tướng Gary Strasbourg, phụ tá
trưởng phòng giao
tế dân sự của căn cứ không
quân, cũng cho biết thêm
phái đoàn này có tất cả
89 người.
Hoa Kỳ đã cung cấp 4 trực
thăng và 2 máy bay để đưa Marcos, vợ ông và những người thân cận từ dinh Tổng
Thống ở Manila đến căn cứ không Quân Clark Air Base, rồi từ đó đến Guam.”
Việc can thiệp của Hoa Kỳ vào nội tình chánh trị Phi Luật Tân đã buộc nhà độc tài này rời bỏ đất
nước, xảy ra 11 năm sau chuyến ra đi của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nếu đem hoàn cảnh của Phi Luật Tân, một đất nước
không có chiến tranh, không bị lệ thuộc
nhiều vào Hoa Kỳ, so với Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1975 thì việc di tản nhà lãnh đạo xứ này một lần nữa cho ta thêm cơ
hội suy gẫm
về số phận các nước nhỏ bé nằm trong quyền lợi của Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ.
Miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị khống chế
nặng nề bởi Hoa Kỳ về mọi lãnh vực trong suốt thời gian dài chiến tranh. Bởi hậu
quả của cuộc chiến mà tất cả chúng ta, nhân dân miền Nam Việt Nam, ai ai cũng đã chuốc lấy biết bao mất mát đau
thương; nên việc ra đi của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu trước hiểm họa đất nước
suy vong đã làm dư luận búa rìu khắc khe kết án là điều không tránh khỏi.
Tính cho đến nay cũng đã hơn ba thập niên, chúng ta đã có đủ thời giờ
để chiêm nghiệm về số phận đau thương
của một đất nước nhỏ bé trong suốt mấy chặng đường dài tang thương của lịch sử dân tộc Việt. Tổ
tiên, ông cha chúng ta đã từng sống nhục
nhã dưới “một ngàn năm đô
hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây.” Đồng bào trong nước nay phải oằn vai gánh nặng những hệ luỵ của một chủ thuyết
ngoại lai trong hơn 30 năm qua; cho nên với những ngày dài lưu
vong và những đau
thương của đất nước, liệu đã đến lúc “ những gì của César trả lại cho César” chưa, những gì của lịch sử đã trả lại cho lịch
sử chưa. Và với thế hệ
trẻ cũng như nhà cầm quyền Việt
Nam đương thời qua đó sẽ rút tỉa được những bài học gì cho tương lai của dân tộc, đất nước.
ÁP LỰC .
Tôi về trình diện Phủ Thủ
Tướng vào đầu tháng Tư
năm 1975, chưa nhận nhiệm sở mới thì Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm từ chức Thủ Tướng Chánh phủ. Tôi được chuyển qua làm việc tại văn phòng Cố Vấn Quân Sự của Tổng Thống Trần Văn Hương.
Tân Tổng Thống Trần Văn Hương ngay sau khi nhậm
chức đã ký sắc lệnh bổ nhiệm Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm làm Cố vấn Quân sự cho ông.
Nhiệm vụ của tôi là lo về an
ninh cho Đại Tướng và bà Trần Thiện Khiêm. Vào giai đoạn dầu sôi lửa
bỏng này công việc
rất là bề bộn. Phần lớn thời
giờ tôi làm việc cho Đại Tướng. Thỉnh
thoảng bà Trần Thiện Khiêm chỉ thị tôi tháp tùng bà
đi thăm viếng, cúng dường các chùa chiền ở vùng Thủ Đức và vài chùa ở ven đô Sài-gòn. Bà là người có đức tin tôn giáo mạnh mẽ và dường như bà hoàn toàn đặt số mệnh của mình
vào sự phò trợ của Đấng Thế
Tôn.
Có lẽ nhờ vậy
mà làm dịu đi tánh năng
động, tinh thần
bà cũng bớt căng thẳng đối với
sự lo âu của bà về tình hình lúc đó.
Nhưng chúng
tôi cũng không thể ngờ, một vị sư trụ trì một trong các ngôi chùa ở đây đã lợi dụng ảnh hưởng của bà để hoạt động tình báo cho
Cộng Sản.
Có sự khác biệt giữa bà và bà Nguyễn Văn Thiệu là bà biết nhiều về
việc công của Đại Tướng hơn
là bà Nguyễn Văn Thiệu biết về việc công của Tổng Thống Thiệu.
Trước kia khi còn làm việc tại Phủ
Tổng Thống, tôi luôn luôn giữ lòng quí mến đối với Tổng Thống phu nhân. Bà lúc nào cũng giữ nếp sống bình dị của người đàn
bà phúc hậu, bao dung của
sông nước vùng
đồng bằng sông
Cửu Long. Đối với tôi, bà Thiệu là hình ảnh một người mẹ, một
người vợ hiền đảm đang hơn là một vị Đệ Nhất Phu Nhân sống trong tột đỉnh của quyền thế và nhung lụa giàu sang. Bà là điển hình của mẫu người phụ nữ
lớn lên trong gia đình được hấp thụ trọn vẹn
một nền giáo dục
Khổng Mạnh mà chúng ta thường thấy trong xã hội miền Nam trong thập
niên 40.
Ở bà Thiệu luôn luôn tỏa ra sự trong sáng và vui tươi. Bà không bao giờ câu nệ về cách ứng xử của nhân viên thuộc cấp; bà luôn luôn
lên tiếng hỏi thăm
sức khỏe chúng tôi trước mỗi khi gặp mặt, không kịp để chúng tôi chào bà.
Điều đặc biệt
là bà không bao giờ đề cập đến bất
cứ chuyện gì có liên hệ đến việc
làm của Tổng Thống Thiệu với chúng tôi. Trong suốt thời gian làm việc tại đây, chỉ có một lần duy nhứt tôi nghe bà
than phiền với Tổng
Thống Thiệu về một nhân vật có đầy quyền thế tại Phủ Tổng Thống
trong lúc tôi đang đứng bên cạnh.
Bà Trần Thiện Khiêm thì trái lại, năng động hơn. Về mặt giao tế,
bà Khiêm là biểu tượng cho mẫu người
đàn bà sang trọng với vẻ đẹp quí phái của một mệnh phụ phu nhân trong xã hội thượng lưu và quyền thế của
Sài-gòn. Nếu chỉ quan sát bề ngoài, người đời nghĩ là bà có
đời sống
hưởng thụ vật chất với tiệc tùng linh đình như các bà trọc phú đương
thời khác. Thực
tế hoàn toàn khác hẳn. Trong gia đình, tất cả mọi người, anh chị em con cháu đều bị ràng buộc chặt chẽ
vào khuôn khổ lễ giáo có truyền thống Á đông. Có thể nói bà kiểm
soát tất cả mọi
sinh hoạt của đại gia đình khá khắt khe; bà cũng rất khắt khe với chính
bản thân bà và sống nép mình vào khuôn khổ đó. Có lẽ do ở bản
tính hướng thiện và thủ cựu nên bà thường hay đi chùa và hay giúp
đỡ người
nghèo khó thế cô. Mọi nhân viên làm việc xung quanh đều được bà tận tình hỏi han giúp đỡ.
Điểm đặc biệt là, trong một chừng mực
nào đó, bà có chia sẻ với Đại Tướng
về một số sự việc; cho nên thỉnh thoảng bà phát biểu công khai với chúng tôi và một số người tín cẩn trong gia đình, những cảm nghĩ
của bà về vài vấn đề của thời cuộc.
Mấy lúc sau này, đã có vài lần bà biểu lộ sự chống đối mạnh mẽ
đối với Tổng Thống Thiệu. Có một hôm bà bảo tôi theo bà
vào dinh Độc Lập để yêu cầu Tổng Thống
Thiệu từ chức! Cũng may là chúng tôi
chỉ được
Tổng Thống Phu nhân tiếp, nếu không thì số phận tôi không biết đã đi về đâu!
Ngoài tính
năng động ra, trong vài trường hợp cấp
thiết, bà là người chủ động. Do đó mà vào trung tuần tháng Tư, mấy ngày sau khi
Thủ Tướng
từ chức, bà Trần Thiện Khiêm cho người đến nhà tìm tướng Charles Timmes. Bà cho tôi biết Tướng Timmes có viết cho bà lời nhắn trên một tấm thiệp
nhỏ là xin đừng gọi điện thoại vì nhà không có điện thoại (?!).
Trung tướng hồi hưu Charles Timmes là sĩ quan chỉ huy toán cố vấn Mỹ đầu tiên có mặt ở Việt Nam từ năm 1961. Ông đã từng nhảy dù trong trận đổ bộ Normandie hồi đệ II thế
chiến. Sau một thời gian ở Việt Nam ông được tuyển dụng và trở thành một viên chức cao cấp với nhiều thế
lực của cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn. Tướng Timmes quen biết và tiếp xúc với hầu hết các tướng lãnh kể cả Đại Tướng Dương Văn
Minh, Tướng Nguyễn Cao Kỳ… Nhiệm vụ của
ông là “gần gũi và tìm hiểu tinh thần các tướng lãnh, nên ai cũng là bạn của ông ta” theo như nhận xét của Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm cho tôi biết sau này.
Sau lần tiếp xúc đó, bà Trần Thiện Khiêm lại cho người
đi mời Tướng Timmes đến nhà dùng cơm tối vào ngày 17 tháng Tư. Khi Đại Tướng
đi làm về biết được chuyện
này, tôi nhận thấy ông có vẻ không hài lòng. Trong bữa ăn hôm đó, từ phòng ăn gia đình gần nhà bếp tôi để ý thấy bà Khiêm có biểu lộ sự xúc động nhưng không có điều gì phải òa lên khóc
như Frank Snepp, một chuyên viên phân tách tình báo cao cấp của cơ
quan tình báo Hoa kỳ, đã diễn tả trong sách của ông ta, cuốn Decent Interval, trang 377.
Cũng theo Frank Snepp thì nhân cơ
hội hiếm
có này, Tướng Timmes muốn thăm dò Đại Tướng Khiêm về việc từ
chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Vào thời gian có quá nhiều xáo trộn chánh trị dồn dập của tháng Tư năm 1975, tin tức hàng đầu vẫn là câu hỏi bao giờ Tổng Thống Thiệu từ chức.
Những người quan tâm đến thời cuộc
đều biết vào lúc đó Tòa
Đại Sứ và cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tìm mọi cách để loại Tổng Thống Thiệu hầu dựng
lên một khuôn mặt ôn hòa hơn.
Đại Tướng
Dương Văn Minh là người hùng của cuộc Cách mạng 1 tháng 11, một nhân vật được nhiều cảm
tình của một số đông dân
chúng miền Nam, có chủ trương mềm dẻo đối với những
đòi hỏi của Cộng Sản,
đang được tòa Đại Sứ Mỹ
đánh giá là một ứng cử viên của tình thế mới.
***
Buổi trưa ngày 21 tháng Tư,
Đại Tướng
Khiêm được Tổng Thống Thiệu triệu
tập vào dinh Độc Lập họp cùng với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trong gần một
giờ đồng hồ. Tôi theo
Đại Tướng
vào dinh Độc Lập cho tới lúc ra về. Tôi biết đây là một buổi họp
rất quan trọng nhưng hoàn toàn
không đoán ra chuyện gì. Mãi khi về tới nhà, Đại Tướng Khiêm bước xuống xe tại
bậc tam cấp, ông không đi
thẳng vào nhà mà dừng lại chờ tôi bước tới rồi
nói với nét mặt vui hơn mọi khi: “Chiều
nay mặc đồ đẹp, vào dinh
Độc Lập
nghe Tổng Thống Thiệu đọc diễn văn từ
chức!”.
Đó là vào khoảng gần 1 giờ trưa ngày 21 tháng Tư, tôi là người đầu tiên nhận được nguồn tin vô cùng quan trọng mà “cả thế giới” đang chờ
đợi.
Mẫu tin quan trọng nầy sẽ có giá trị rất lớn trong sự thăng tiến nghế
nghiệp truyền thông của một phóng viên quốc tế nếu họ nhận được tin
đó trước vài tiếng đồng hồ.
Một thoáng suy nghĩ giữa lợi lộc và chữ tín, nhưng cũng vì lương
tâm chức nghiệp
nên nguồn tin đã được giữ kín cho đến 7 giờ 30 tối hôm đó.
Sau này khi đọc các tài liệu và sách vở thì người đầu tiên biết được tin từ chức không phải là tôi. Tòa Đại Sứ Mỹ đã biết trước tôi! Trong lúc Tổng Thống Thiệu thông báo việc từ chức
của ông cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương
và Đại Tướng Trần Thiện Khiêm thì tại tòa Đại Sứ Mỹ, hệ thống
điện tử đã ghi âm rõ những gì Tổng Thống Thiệu nói như
Frank Snepp đã ghi trong sách của ông, trang 394. Chuyện nghe lén này dư luận cũng đặt ra nhiều
giả thiết là người Mỹ bắt đầu nghe lén từ lúc nào và bằng cách nào, đặt máy ở đâu. Đó
là câu hỏi không nằm trong bài viết này.
Tôi có mặt tại phòng Khánh Tiết trong dinh Độc Lập vào lúc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn
văn từ chức trước một cử tọa rất
đông đảo gồm các nhà lập pháp của hai viện Quốc Hội với
đầy đủ các viên chức chánh phủ và các cơ quan truyền thông. Ngay hôm đó Tổng Thống Thiệu tuyên bố bàn giao chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa lại cho Phó Tổng Thống Trần
Văn Hương theo như Hiến Pháp đã qui định…
Tôi có mặt tại phòng Khánh Tiết trong dinh Độc Lập vào lúc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn
văn từ chức trước một cử tọa rất
đông đảo gồm các nhà lập pháp của hai viện Quốc Hội với
đầy đủ các viên chức Chánh phủ và các cơ quan truyền thông. Ngay hôm đó Tổng Thống Thiệu tuyên bố bàn giao chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa lại cho Phó Tổng Thống Trần
Văn Hương theo như Hiến Pháp đã qui định…
Ngay sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Ngoại
Trưởng Kissinger liền gởi cho ông Graham Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài-gòn một điện
văn. Tiến sĩ Kissinger ỵêu cầu ông Đại Sứ chuyển lời bày tỏ lòng “kính trọng” của ông đối với vị
cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa và đề nghị muốn giúp Tổng Thống Thiệu
rời khỏi Việt Nam. (Decent Interval trang 396 )
Cũng trong chiều hướng đó, sáng sớm hôm sau là ngày 22 tháng Tư, tướng Charles Timmes vội
vã đến tư dinh Đại Tướng Khiêm xin được tiếp kiến. Đại Tướng đã tiếp ông hơn nửa tiếng đồng hồ. Rồi
ngay chiều hôm đó Đại Tướng Khiêm vào dinh Độc Lập gặp Tổng Thống Thiệu.
Chúng ta khó biết Đại Tướng Khiêm nói gì với cựu Tổng Thống Thiệu nhưng sẽ
không loại bỏ những gì Tướng Timmes muốn
đề nghị lên ông Thiệu là nên ra đi khỏi nước.
Sau này ở hải ngoại Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm có cho tôi biết là ngay sau
khi Tổng Thống
Thiệu từ chức “cụ Hương muốn Tổng
Thống Thiệu và dượng Tư” đi
đường biển qua Singapore. Tiết lộ này trùng hợp với việc Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã yêu cầu ông Hoàng Đức Nhã qua Singapore gặp ông để thông báo là giới chức Mỹ muốn Tổng Thống Thiệu
phải đi lưu vong ở Singapore hoặc một thủ
đô nào của các quốc gia vùng Đông Nam Á. (Decent Interval trang 383)
Tuy đã từ chức song cựu Tổng Thống
Thiệu vẫn còn ở trong dinh Độc
Lập và còn áp đặt nhiều ảnh hưởng
khiến cho Tân Tổng Thống Trần Văn Hương
gặp nhiều khó khăn trong
đường lối thương nghị với Cộng Sản
theo như Oliver Todd ghi lại trong cuốn sách Cruel April trang 327.
Để thấy ảnh hưởng của
cựu Tổng Thống Thiệu đối với Tân Tổng Thống Trần Văn Hượng, tôi ghi ra đây giờ giấc làm việc của hai vị
cựu và tân Tổng Thống với sự có mặt của Đại Tướng Khiêm. Đây là ghi nhận từ phía văn phòng
Đại Tướng Khiêm.
Phần thời
gian làm việc riêng giữa cựu Tổng
Thống Thiệu với Tổng Thống Hương thì có lẽ các quí vị sĩ quan tùy viên của cựu Tổng Thống Thiệu xác nhận và bổ túc thêm. Các vị ấy là Chánh tùy
viên Đại Tá Nguyễn Văn Đức, các sĩ quan tùy viên: Đại Úy Nguyễn Xuân Tám, Hải Quân Đại Úy Trần Anh Tuấn.
Chương trình này tôi có ghi
vào sổ tay như
sau:
• Ngày 22 tháng Tư, Đại Tướng
Khiêm:
16:00 giờ vào dinh Độc Lập gặp cựu Tổng Thống Thiệu.
18:00 giờ qua cánh phải, tại văn
phòng của Tổng Thống, gặp Tổng Thống Hương.
• Ngày 23 tháng Tư, Đại Tướng
Khiêm:
16:30 giờ vào dinh
Độc Lập gặp
Tổng Thống Hương khoảng 20 phút rồi qua cánh trái dinh Độc Lập gặp cựu Tổng
Thống Thiệu. Sau đó Tổng Thống Hương,
cựu Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng họp
cho đến 20:00 giờ.
• Ngày 24 tháng Tư, Đại Tướng
Khiêm:
Lúc 15:00 giờ vào dinh
Độc Lập gặp
cựu Tổng Thống Thiệu, sau đó qua văn phòng Tổng Thống Hương, rồi cùng họp với cựu Tổng Thống Thiệu và Tổng Thống Hương.
•Ngày 25 tháng Tư, Đại Tướng
Khiêm
Lúc: 09:00 giờ sáng vào
dinh gặp Tổng
Thống Hương, cựu Tổng Thống Thiệu và Đại Sứ Pháp Jean-Marie
Mérillon của nước
Pháp.
Ngoài ra theo Frank Sneep, Đại Tướng Dương
Văn Minh ( lúc nầy Đại Tướng Minh chưa
có vai trò gì trong chánh quyền ) cũng đã góp một phần lớn vào sức ép buộc cựu Tổng Thống Thiệu phải rời
khỏi nước. Tướng Minh cho rằng sự có mặt của ông Thiệu làm cản trở tiến trình hòa
bình do ông chủ trương nên ông yêu cầu tướng
Timmes phải bằng mọi cách thúc
bách cựu Tổng
Thống Thiệu sớm ra đi. Khi biết được
điều này, Đại Sứ Martin rất lấy làm phấn khởi; trước hết ông không muốn bị mang tai tiếng về việc ra đi của
ông Thiệu, ông muốn cho dư luận tin rằng
đó là sức ép từ các thế lực địa phương – không phải từ phía tòa Đại Sứ Mỹ.
( Decent Interval, trang 434)
Một tiết lộ khác của Oliver Todd, trong
cuốn Cruel April, là cuối cùng Tổng Thống Trần Văn Hương phải quyết
định triệu hồi Đại Sứ Martin vào dinh Độc Lập. Cụ Hương nêu ra nhiều lý do và nhấn mạnh với ông Martin là nếu còn có sự hiện diện của ông Thiệu ở Sài Gòn thì chánh
quyền do ông lãnh đạo khó tiến hành các cuộc hòa đàm với phía bên kia. Tổng Thống Hương yêu cầu nước Mỹ nhận ông Thiệu sang sống lưu
vong. Ông Đại Sứ hứa là chánh quyền Mỹ sẵn sàng chấp nhận ông Thiệu sang sinh sống ở Hoa Kỳ.
Nay nhìn lại các hoạt động của
tướng Timmes và dựa vào các văn kiện của các Bộ Ngoại Giao và Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ, chúng ta thấy rõ ràng đã có áp lực mạnh mẽ
từ Hoa Thịnh Đốn buộc ông Thiệu phải đi ra khỏi nước theo kế hoạch
của họ ngay sau khi ông từ chức.
Văn kiện đầu tiên được gởi đi từ
Hoa Thinh Đốn, đúng 12 tiếng đồng hồ
sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, là:
Buổi sáng ngày 22 tháng 4, năm 1975, thừa lệnh Tổng
Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Bộ Tư Pháp của chánh phủ này đã
gởi điện
văn ủy quyền cho tòa Đại Sứ Mỹ tại
Việt Nam cấp một số parole documents (giấy tạm
cư) cho phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu. (Cruel April, trang 327)
Giấy tạm cư này có phát
cho chúng tôi; ngày phái đoàn rời Việt Nam là ngày 25 tháng 4,
1975 mà trên parole documents do tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn cấp, lại đề ngày April
22, 1975
CHUẨN BỊ RA ĐI
Tại tư dinh Đại Tướng Trần Thiện
Khiêm. Buổi sáng ngày 25
tháng Tư, tôi thức dậy trễ vì đêm
rồi Đại
Úy Mùi, sĩ quan tùy viên của Đại Tướng
và tôi xem tivi, nói chuyện rất khuya. Ăn mặc vội
vàng rồi như thường lệ tôi đến phòng trực của sĩ quan tùy viên. Đây là một phòng nhỏ, chỉ kê có một bàn viết ngay cửa ra vào tư dinh của Đại Tướng. Trung Tá Đặng Văn Châu là Chánh
Văn Phòng đã có mặt tại đó. Ông vừa được
chỉ định thay thế Đại Tá Nguyễn Trọng Hồng. Tôi quan sát
thấy ông có vẻ bận rộn hơn những ngày thường. Lúc này vào khoảng 8 giờ rưởi. Bên ngoài trời có nắng đẹp. Tiếng người hối thúc nhau và tiếng ồn ào của đủ loại
xe cộ chạy trên đường Võ Tánh trước cửa tư dinh Đại Tướng trong thời
gian gần đây càng dồn dập, hối
thúc hơn. Từ khi tiễn bà Trần Thiện Khiêm đi Đài
Bắc, sau giờ
làm việc tôi không về nhà bên vợ như thường
lệ, theo lời dặn của bà là phải dành ưu tiên lo an ninh cho Đại Tướng; do đó không lúc nào tôi rời ông trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc đi ra ngoài cũng như
lúc ở nhà. Ngay khi ngủ ban đêm, để bảo đảm
an ninh tối đa cho Đại Tướng,
Đại Úy Mùi và tôi quyết định trải chiếu
ngủ tại phòng ăn, ngay dưới chân cầu thang dẫn lên phòng ngủ của Đại
Tướng ở trên lầu. Phòng làm việc của Đại Tướng cũng ở trên đó, đặt cạnh phòng ngủ. Trung Tá Châu cho biết là chỉ thị của Đại Tướng
muốn tôi ra ngân hàng quốc gia đổi 3 triệu đồng
bạc Việt Nam để lấy tiền Mỹ kim bằng
bạc mặt (cash). Trung Tá Châu còn
lo xa và muốn cho việc đổi tiền được mau
lẹ nên đã gọi điện thoại đến
các cơ quan liên hệ trước vì tôi là người lạ mới về làm việc tại tư
dinh chỉ mới hơn ba tuần lễ. Tài xế đưa tôi đến thẳng
văn phòng ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng.
Người đầu tiên tôi gặp là ông Nguyễn Văn Thân, bí thư của ông Bộ Trưởng. Anh Thân hiện định cư
ở thành phố San Jose, miền bắc
California. Cũng may anh Thân và tôi đã
quen nhau từ trước. Anh là người vui tánh, lanh lẹ và cởi mở. Tôi cho anh biết ngay là Đại Tướng Cố Vấn cần Mỹ kim, bằng
tiền mặt, để dùng cho
công tác đặc biệt. Anh bảo tôi chờ để anh trình lên ông Bộ Trưởng. Anh và tôi ngồi nói chuyện thời sự khoảng 20 phút thì văn thư làm xong. Tôi cám ơn anh Thân rồi xuống phòng phía dưới lầu gặp
ông Phạm Văn Phàng, Chánh Sự Vụ Sở Công Văn, để lấy văn thư đến Bộ Tài Chánh. Trong văn thư ông Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng
Nguyễn Long Châu gởi ông Tổng Trưởng Tài Chánh
yêu cầu thỏa
mãn nhu cầu của Đại Tướng. Bản văn nầy
mang số 899 P Th T/HCPC/5, hiện tôi còn giữ. Lúc đó vào khoảng 10 giờ hơn. Tôi vội vã rời Phủ Thủ Tướng đến thẳng Bộ
Tài Chánh. Khi đến Bộ Tài Chánh thì
được giới chức
tại đó cho biết
là ông Tổng Trưởng
đang họp và buổi
họp sẽ kéo dài lâu lắm. Tôi hơi thắc mắc về câu nói “buổi họp sẽ kéo dài lâu
lắm” nhưng
tôi vẫn cứ chờ. Sau đó tôi có nhắc đây là yêu cầu của Đại Tướng và có ai có thẩm quyền ở đây không
ngoài ông Tổng Trưởng. Họ trả lời không dứt khoát và yêu cầu tôi cứ chờ. Chờ
mãi đến giờ trưa vì đói
nên tôi cùng tài xế và anh hiệu thính viên
truyền tin ra Chợ
Cũ, đến tiệm Thanh Xuân ăn
hủ tiếu.
Tôi không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng mà mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hương vị hủ tiếu Thanh Xuân của khu Chợ Cũ năm nào. Sau khi
ăn xong, chúng tôi trở lại Bộ Tài Chánh. Ông Tổng Trưởng
vẫn còn đang họp! Lúc đó
thì đã xế trưa. Tổng Trưởng Tài Chánh lúc bấy giờ là ông Lê Quang Trường thuộc nội
các Nguyễn Bá Cẩn. Tôi đành phải kiên nhẫn chờ mặc
dầu tôi nghi ngờ về việc “họp” của
ông Tổng Trưởng. Tôi có ý nghĩ
không tốt về vị
Tổng Trưởng này lúc đó. Về sau, được
biết sau tháng 4/1975, Tổng Trưởng Lê Quang Trường cũng bị bắt và bị đưa
đi “ học tập cải tạo ” như bao người
khác. Tôi hối hận vì đã nghi oan cho
ông. Trong lúc tôi vắng mặt tại tư dinh, Đại Tướng
Trần Thiện Khiêm đã tiếp tướng
Timmes lúc 11 giờ 50 trưa và sau đó tiếp ông Polgar vào lúc 1 giờ. Ông Thomas Polgar là trưởng chi nhánh tình báo Hoa Kỳ tại Sài-gòn. Ông chỉ huy và điều hành một cơ quan tình báo rất hùng hậu gồm hàng ngàn nhân viên. Ngoài hoạt động điều nghiên, thu thập tin tức địch, họ còn có mặt ở mọi nơi, len lỏi vào mọi ngành, mọi cấp của chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Polgar là một nhân
vật có ảnh hưởng rất lớn
trong mọi sinh hoạt chánh trị và quân sự ở
Sài Gòn. Tôi vừa về tới thì thấy ông này vừa
ra về.
Lúc đang chờ tại văn phòng ông Tổng Trưởng Tài Chánh
thì anh tài xế bất chợt xô cửa bước vào, cho biết lịnh của Đại Tướng là phải trở về nhà gấp.
Trước khi trở về bộ Tổng Tham Mưu,
tôi cho xe chạy vòng qua chợ Trương
Minh Giảng, về nhà đứa em thứ tám của tôi ở trong một đường hẻm nhỏ. Má tôi cũng ở đó. Tôi không gặp được ai ngoài
anh Chứ, người anh
thứ tư của tôi. Tôi cho anh biết một số
sự việc và báo là tôi có thể sẽ đi một
mình thôi, không đem ai theo
được. Các anh em còn lại chỉ còn có con đường duy nhất là hãy xuống phi trường
Trà Nóc ở Cần Thơ nhờ Hưng lo liệu. Hưng là em trai kế của tôi, đại úy phi công lái Cessna. Tôi căn dặn thêm là nói với Hưng, chỉ
có con đường cuối cùng là lái phi cơ thẳng qua phi trường Utapao, Thái Lan.
Trên đường về tư dinh Đại Tướng
Khiêm, theo thói quen, tài xế thường chạy
xe qua đường Trương Quốc Dung – con đường
dẫn vào cổng số 5 Bộ Tổng Tham Mưu
là con đường nhỏ nối liền đại
lộ Cách Mạng 1 tháng 11 và
đường Võ Tánh. Khi chạy ngang qua nhà anh Nguyễn Thanh Vân thì tôi thấy anh đang đứng
ngay trước cổng nhà có vẻ như trông chờ ai. Tôi cho xe dừng lại và cũng vì chỗ thân tình, tôi khuyên là “các anh em” có phương
tiện gì thì cứ đi đi. Các anh em mà tôi nhắn ở đây là những bạn học cũ ở trường Petrus Ký trước kia, một số là sĩ
quan Hải Quân và một số bạn dân sự khác gồm có anh Trần Khánh Vân.
Lúc đó Vân đang là Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Gia Cư. Tôi không biết là vào lúc đó, trong số họ, nhiều
người đã đi rồi! Mặc dầu
không nói ra nhưng khi Đại Tướng
Khiêm muốn tôi
đích thân đi đổi tiền cũng là một cách gián tiếp cho tôi biết là phải “ sẵn sàng để đi. ” Có một việc bất
ngờ xảy ra trước đó hai hôm cũng
cho tôi thấy Đại
Tướng có ngầm ý cho tôi
biết là “ phải chuẩn bị.” Thông thường Đại Tướng
Khiêm ăn trưa xong là đi thẳng lên lầu nghỉ trưa, ít khi
đi dạo phía sau vườn. Trưa ngày 23 tháng Tư,
vừa ăn
xong, Đại Tướng không lên lầu mà lại đi ra phía sau nhà. Tôi
đi theo sau ông. Đại Tướng vừa bước
ra khỏi cửa sau thì bỗng có chiếc xe Mazda từ ngoài chạy vào. Tài xế thấy ông, giật mình dừng xe lại. Liền sau đó vợ tôi bước xuống. Cô nầy vừa khoanh tay khom mình chưa
kịp thưa
thì ông đã nạt lớn: “ Sao không đi đi, còn ở đây làm gì! ” Nhà tôi sợ quá, vội vàng leo lên xe.
Trong khi xe đang quay đầu chưa kịp
chạy thì Đại Tướng lại la tiếp:
“ Đi liền đi, còn chờ gì nữa!” Bà xã tôi và tôi chưa kịp nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, gia đình bên vợ tôi lên máy bay Air Việt Nam đi Pháp. Ba vợ tôi là ông Đinh
Văn Re còn ở lại nên
tôi mới có dịp gọi điện thoại
cho ông vào phút chót, lúc Đại Tướng Khiêm sắp sửa lên đường.
Khi tôi về đến tư dinh thì thấy mọi người đều lăng xăng
trong bầu không khí khác thường. Thiếu Tá Đinh Sơn Thông là em bà Khiêm và cũng là Bí Thư
của Đại
Tướng nói với tôi là hãy
đi nghỉ ngơi rồi ăn mặc chỉnh tề để
chuẩn bị tiếp khách theo lịnh của thượng
cấp. Đến đây thì tôi thấy chắc chắn
hôm nay là ngày lên đường, nhưng cá nhân tôi thì vẫn chưa có quyết định.
Nghỉ ngơi trong chốc lát rồi tắm rửa
thay thường phục xong, tôi chưa
vội khoác áo ngoài. Theo thông lệ tôi đi một vòng quanh nhà để kiểm soát các quân
nhân canh gác và toán cận vệ
rồi trở vào bằng
cửa sau.
Trước hết phải đi qua nhà bếp. Các anh làm bếp đang bận rộn nấu
ăn, khuôn mặt người nào cũng có vẻ ưu tư, lo lắng; chốc chốc người
nọ nhìn người kia như để gạ hỏi
điều gì. Họ thấy tôi ăn mặc khác thường nên càng xầm xì nhiều hơn vì trong suốt thời gian làm việc tại tư dinh Đại Tướng tôi chỉ mặc quân phục. Đặc biệt
hôm nay tôi lại thay quần áo thường phục. Để tránh sự tò mò, tôi nói giã lã vài câu chuyện rồi bước lên nhà trên.
Nhìn qua phòng khách tôi thấy bàn ăn đang đặt tại đó. Tôi nghĩ bụng, đáng lẽ
ra phải dọn tiệc tại phòng ăn, ai lại dọn lên phòng khách.
Phòng ăn rộng rãi và khang trang hơn. Dĩ nhiên đây là dấu hiệu bất thường. Rồi tôi đi về phía trước nhà.
Đến phòng trực của sĩ
quan tùy viên, tôi thấy Thiếu Tá Lưu là sĩ quan tùy viên lên ca, thay thế Đại Úy Mùi làm việc ngày hôm trước. Anh đang xem xét giấy tờ và bận rộn lo giải
quyết công việc thường nhựt một cách bình thản coi như không có chuyện gì xảy ra. Hình ảnh anh Lưu để lại
trong tôi một ấn tượng thật tốt
đẹp. Sự tận tụy và tinh thần phục vụ
của anh trong giây phút này thật là đáng quí. Tôi tin anh đã biết rõ mọi chuyện vì anh là người có họ hàng với gia đình Đại Tướng.
REPORT THIS AD
Một lúc sau ông Trần Thiện Phương là anh ruột của Đại Tướng đến. Ông đi thẳng lên lầu gặp Đại
Tướng trong vòng vài phút rồi vội vã ra về. Sau đó Thiếu Tá Đinh
Sơn Tuyền là em bà Đại Tướng cũng tới. Tôi đến chào ông Tuyền đang ngồi tại hành lang trước nhà với vẻ mặt trầm tư. Tôi trao số tiền 3 triệu đồng bạc lại cho ông. Sau đó Thiếu Tá Tuyền
chỉ vào thưa chuyện
với Đại Tướng trong vòng vài phút rồi cũng vội vã ra
về.
Gần xế thì có lịnh từ Sở
An ninh hoàn trả Đại Úy Vân và toán cận vệ của anh về phủ Thủ Tướng.
Toán quân nhân gác nhà cũng được trả về
Liên Đoàn An Ninh Danh Dự. Kể từ giờ phút này nhà Đại Tướng Khiêm coi như
bỏ ngõ. Tôi bắt
đầu lo lắng.
Lúc này cũng đã hơn 6 giờ chiều.
Vì thấy tôi có vẻ đăm chiêu Trung Tá Châu cho biết là chiều nay Đại Tướng muốn
chánh thức mời Tổng Thống Thiệu, vài nhân vật trong nội các và ngoại giao đoàn đến dự tiệc để ông chào
giã biệt vì từ ngày từ chức Thủ Tướng
đến nay chưa có dịp tổ chức.
Tôi biết đó chỉ là lối ngụy trang cho chuyến đi.
Tôi chỉ thắc mắc tại sao lại
có Tổng Thống Thiệu, tôi nghĩ
Tổng Thống
Thiệu đã có kế hoạch ra đi riêng của ông.
Trời vừa chập choạng tối thì các món ăn cũng được dọn lên. Hôm đó có chả giò, nem nướng;
mấy dĩa chả giò cuốn nhỏ, chiên giòn được bày ra trông rất đẹp mắt. Cách trình bày cũng làm cho thực khách cảm thấy món ăn ngon miệng hơn, nhưng lúc này lòng
dạ trăm thứ
ngổn ngang thì bụng nào thấy đói.
GÓI QUÀ ĐẶC BIỆT TẠI TOÀ ĐẠI SỨ HOA KỲ
Tòa Đại Sứ Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, cách dinh
Độc Lập vài khoảng đường, “từ đó có thể nhìn thấy các sinh hoạt của dinh
Độc Lập.” “ Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi
chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe
Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố SàiGòn ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ Tướng
Khiêm đi Đài Loan tối nay…”
Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434.
Cũng khoảng thời gian trên tại dinh Độc
Lập… Cựu Tổng Thống Thiệu đang nghỉ ngơi
ở phòng đọc sách tại lầu 3 bên cánh trái (từ trong dinh nhìn ra).
Ông gọi Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu, sĩ quan Tùy Viên thân cận nhất của ông, vào để chỉ thị mấy việc cần thiết và bảo ông Chiêu đem bộ quần áo của ông về nhà riêng trong Bộ Tổng Tham Mưu. Nhà này cũng nằm chung dãy nhà với Đại Tướng
Khiêm. Sau đó Tổng Thống Thiệu gọi các vị sĩ quan thân cận gồm có: Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh
Văn phòng; Đại Tá Nguyễn Văn Đức, Chánh Tùy viên; Đại Tá Nhan Văn Thiệt, Chỉ huy trưởng Cảnh
sát Quốc gia Vùng 4; Đại Tá Trần Thanh Điền,
Trưởng khối Cận Vệ. Tổng Thống Thiệu
ra lịnh, “ tất cả mấy chú phải thay thường phục, có mặt tại dinh lúc 7 giờ. Mỗi chú chỉ được
mang theo một túi xách tay nhỏ, tuyệt đối
giữ bí mật, không được thông báo cho
gia đình.” Tổng Thống Thiệu vừa dứt lời thì Đại Tá Điền thưa, “ Xin
Tổng Thống cho (Trung Tá) Sáng và
(Trung Tá) Thứ đi theo.” Thấy ông Thiệu không trả lời, ông Điền lặp lại
thì cũng vừa lúc đó
Đại Tá Đức khều nhẹ. Điền hiểu ý. Sau nâỳ được biết Tổng Thống Thiệu
đã có chỉ thị choTrung Tá Sáng ở lại với công tác
đặc biệt,
còn Trung Tá Thứ thì ở lại tiếp
tục lo an ninh cho Tổng Thống Trần Văn Hương.
Riêng Bác sĩ Minh lúc đó không có mặt trong dinh, Trung Tá Chiêu phải gọi vào. Thói thường lịnh
vua truyền là như vậy nhưng lệ làng thì khác. Mấy hôm nay tất cả các vị quan này, vì bị đặt trong tình trạng báo động nên lúc nào cũng túc trực tại dinh, khi
nghe được lịnh trên, ai ai cũng
đều vội vã chạy về nhà hoặc gom góp chút ít đồ đạc, giấy tờ cá nhân, và
dĩ nhiên là có thông báo cho vợ con, rồi trở lại dinh Độc lập
ngay.
Tại tư dinh Đại Tướng Khiêm…
Quang cảnh có vẻ cần phải quan tâm hơn. Trong nhà bếp, Thượng Sĩ Trị, Thượng Sĩ Xê
đang khóc thút thít. Anh Tín, một tay đầu
bếp nấu ăn rất giỏi đang buồn rầu.
Xin nói thêm, các chị em bà Trần Thiện Khiêm đều là những giai nhân hiền thục, đồng
thời là nhũng người vợ đảm
đang, lại thêm có khoa nấu ăn rất
khéo. Có một lần tôi nghe một vị công chức cao cấp kể rằng: “ người
ta đồn gia đình bà Khiêm nấu các món ăn ngon nổi tiếng ở SàiGòn.”
Trung Úy Hồng uống rượu nhiều,
đang say ngà ngà. Anh Hồng cứ theo
chất vấn Thiếu Tá Thông là
“sếp” đi
đâu. Các anh thường gọi Đại Tướng
Khiêm là “sếp” với cả tấm lòng kính mến vì họ là những người, phần lớn
cuộc đời, đã gắn bó với gia đình này. Dĩ nhiên là anh và các nhân viên phục dịch tại nhà đều cảm nhận việc
Đại Tướng sắp ra đi nhưng muốn
được chánh thức xác nhận. Cuối cùng ThiếuTtá Thông phải nói thật là “chúng tôi đưa Thủ Tướng ra khỏi nước!”
Nghe đến đây, tôi đâm ra
lo sợ cho sự
an toàn của Đại Tướng nhiều
hơn vì dưới khía cạnh an ninh tôi hoàn toàn không tin tưởng bất cứ ai. Tôi để ý từ lâu hai ông Châu và Thông cũng không
có chuẩn bị
cho sự an toàn của cá nhân hai
ông thì làm sao mà lo cho Đại Tướng được. Hai vị này từ lâu đã trở thành mẫu người công chức – đúng hơn là những viên chức ngoại giao. Điều đó làm cho tôi lo ngại thêm. Nhưng các diển tiến sau đó cho
biết những gì tôi
nhận xét là sai lầm.
Kiểm lại các sự việc đã diễn ra, tôi nghĩ là tôi đã được chọn cùng đi theo phái đoàn. Lúc bà Trần Thiện Khiêm còn ở nhà, bà cũng có nói xa
gần với tôi như
vậy. Nhưng lúc đó cũng không có gì là chắc chắn vì tôi thấy trong nhà còn có Thiếu Tá Đinh Sơn Tuyền là ruột thịt trong nhà, là người mà gia đình cần hơn tôi; vì vậy mà tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho đến khi ông Tuyền đến chào từ giã Đại Tướng thì thật sự mới
biết là tôi có tên trong danh sách trình lên Tổng Thống Trần
Văn Hương.
Nhưng riêng cá nhân tôi thì cũng chưa
có quyết định
dứt khoát, đi cũng là điều may mà ở lại cũng không phải là điều gở; nếu đi thì tôi còn gần vợ con mà ở lại thì cũng là cơ
hội cho tôi được lo cho bà Ngoại và Má tôi cùng nhiều anh em đang có hoàn cảnh sống khó khăn, họ cần sự có mặt của tôi. (Bây giờ nghĩ lại, mới biết là mình còn quá
ngây thơ).
Khi nghe Thiếu Tá Thông nói như vậy thì tôi đi vội về phòng, kiểm soát lại một số giấy tờ. Những gì không cần thiết tôi đem ra sân
sau đốt cùng với tập nhựt ký. Lúc
đó tôi nghĩ việc tiêu hủy tập nhựt ký của tôi chỉ đơn giản là không muốn các chi tiết ghi chép bị lọt ra ngoài nếu tôi không mang theo được bên mình, đâu có ngờ rằng điều đó đã
làm cho tôi ân hận mãi, vì nếu còn giữ được
cho đến bây giờ, nó sẽ là những chứng liệu vô cùng hữu ích cho một số các sự việc mà giờ đây vẫn còn trong
vòng tranh cãi!
Tôi nhét vội hai bộ đồ
cùng các giấy tờ tùy thân và cây súng
rouleau nhỏ vào cái samsonite – đây là loại samsonite dùng đựng hồ sơ nhưng có bề dày khoảng một tấc có thể đựng 2 bộ
đồ. Còn cây K54 tôi nhét vào thắt lưng tuy
đã có lịnh tuyệt đối không được mang theo vũ khí.
Vì nóng lòng muốn về chào từ biệt má tôi và anh em lần chót, tôi hỏi Thiếu Tá Thông cho tôi ra
ngoài khoảng 15 phút. Ông đồng ý và còn hứa sẽ “ lo bảo đảm an
ninh của anh Tư.” Tôi liền gọi tài xế đem xe ra cổng trước chờ …
Cũng trong thời điểm này, tại cơ quan CIA…
“Khoảng 8 giờ 30, bốn người chúng tôi đi trên ba xe đến Bộ Tổng Tham Mưu của
Nam Việt Nam nằm bên ngoài Tân Sơn
Nhứt. Khiêm có nhà riêng ở đây. Joe và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng tôi lo sợ một việc không lành có
thể tái diễn vụ ám sát anh em ông
Diệm trước
đây… trên đường đi nếu
có những sĩ quan trẻ Việt Nam chận chúng tôi lại, ra lịnh cho chúng tôi xuống xe và … định hạ thủ. Chúng tôi quyết định phải
mang vài đứa theo chúng tôi…”
Đó là dự tính của nhóm ông
Frank Snepp trước khi đoàn xe lên đường vào nhà Đại Tướng Khiêm. (Decent
Interval, trang 435)
Tôi vừa bước ra tới cửa,
giật mình thấy có ba chiếc xe
Chevrolet to lớn màu đen, mang bảng số ngoại
giao, đang đậu ngay trước cổng nhà, sát bức tường phòng thủ của bộ Tổng
Tham Mưu. Đoàn xe hướng đầu về
phía cổng chánh.
Tôi liền đổi ý, trở vào nhà thì gặp Đại Tướng
đang ngồi ở phòng khách. Ông gọi
tôi lại và giao
cho tôi một gói đồ được gói
trong giấy hồng điều
thật đẹp. Gói quà có kích thước bề ngang khoảng
5 tấc, cao độ 3 tấc, dày một tấc. Đại
Tướng Khiêm dặn, “ Phận, giữ
cái này là món quà tặng. Một chút nữa Tổng Thống Thiệu tới đi thì đem theo.” Tôi xách gói quà lên để cân sức nặng, không nặng mà cũng không nhẹ. Lúc Đại Tướng
Khiêm ra lịnh như vậy, qua thái độ và cử chỉ của ông, tôi nghĩ
đó là món quà có thể dùng để tặng ông Đại Sứ Mỹ,
hay là phi hành đoàn, hoặc một nhân vật nào ở Đài Bắc…Trong suốt cuộc hành trình vì là món quà quí nên tôi phải ôm nó trong
người mà vẫn không tài nào đoán ra ở trong đó có cái gì cho tới khi đến Đài Bắc.
Khi nghe nói “Tổng Thống Thiệu tới
đi ” thì tôi thấy rõ ràng
không còn thời gian nhiều nữa. Tôi vội chạy lên lầu, vào phòng làm việc của Đại Tướng,
nhấc điện thoai gọi tổng đài Phủ Tổng Thống, yêu cầu cho tôi nói chuyện với khối cận vệ. Thật may mắn
là Sĩ, em rể của tôi, có mặt tại đó. Sĩ là cận vệ của Tổng Thống Thiệu. Tôi bảo Sĩ lên nhà Tổng Tham Mưu ngay
lập tức có việc cấp bách, không thể nói qua điện thoại được. Lúc này Bộ Tổng Tham Mưu có lịnh kiểm soát người ra vào nghiêm nhặt. Tôi phải ra cổng chánh đón Sĩ vào.
Tôi và Sĩ đứng nói chuyện ngay trước cửa nhà Đại Tướng. Tôi cho biết là tôi sẽ đi nhưng chưa biết
đi đâu và căn dặn tất cả anh em Lạc, Phất
nếu không đi được thì về Tây Ninh, sống gần gũi, nương tựa
nhau. Tôi đưa cho Sĩ địa chỉ nhà của ông bà Đại Tướng ở Đài Bắc. Chúng tôi cả hai đều khóc. Lúc này là vào khoảng 8 giờ 30.
Tại lầu ba dinh Độc Lập, bên cánh trái…
Vào khoảng 7 giờ 30 tối. Trong phòng ngủ, Tổng Thống Thiệu thay đồ bốn túi, bộ đồ nầy may bằng vải gabardine màu nhà binh tại nhà may Huỳnh Hoan. Tiệm may nầy nằm
trên con đường nhỏ ở quận Nhứt,
hiện nay vẫn còn. Ông đi qua phòng nhỏ cạnh phòng ngủ, nghiêng đầu
qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp
một chiếc xe Mercedes màu xanh
đậm đang
đậu tại đó. Người cầm tay lái là Đại Tá Nhan Văn Thiệt. Ông Thiệt đã từng giữ chức
vụ Trưởng khối An Ninh Phủ
Tổng Thống. Khối An ninh là tiền thân của Khối Cận Vệ sau này…
Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng Thống Thiệu vội vã rút trong
hộc tủ ra
cây Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo.
Xong xuôi ông bấm interphone gọi sĩ quan Tùy Viên trực lúc đó là HQ Đại Úy Trần Anh Tuấn. Ông đưa
cho Đại Úy Tuấn một gói quà nhỏ và ra lịnh, “ Chú mang cái hộp này qua cụ Hương. Nếu không gặp Cụ thì ngày mai đem qua cũng được. Nhớ đừng mở ra.”
Có lẽ ông đã gọi thẳng Tổng Thống Hương
nên biết cụ còn đang bận tiếp Đại
Sứ Pháp, ông Jean-Marie Mérillon, nên mới dặn Đại
Úy Tuấn như vậy.
Khi ông và Đại Úy Tuấn vừa bước
ra khỏi phòng thì lúc đó Đại Sứ Mérillon cũng vừa từ phòng làm việc của Tổng
Thống Hương bước ra. Thấy vậy ông Thiệu cùng với Đại Úy Tuấn đi qua tận văn phòng, trao
cái hộp quà này cho Tổng Thống Hương. Trao quà xong, Tổng Thống Thiệu và Đại Úy Tuấn quay trở về bên cánh
trái. Khi tới
cầu thang máy, anh cận
vệ bấm nút mở
cửa cầu thang. Trước khi bước vào, ông Thiệu xoay lại dặn
Đại Úy Tuấn, “ Tôi đi
qua nhà Đại Tướng ăn cơm rồi trở về, chú khỏi đi theo.” Ông lanh lẹ bước vào thang máy bấm nút tầng trệt.
Đại Úy Tuấn vì thấy có nhiều sinh hoạt khác thường, dự đoán là hôm nay ông
Thiệu sẽ
đi. Muốn để cho ông yên tâm
nên cả buổi
chiều anh cố tìm cách lánh mặt và mỗi lần theo ông đi
đâu, anh đi cách xa ông.
Tại tầng trệt,
khi cánh cửa cầu thang mở ra thì Đại Tá Điền đã túc trực tại đó. Tổng Thống Thiệu vừa bước
xuống bậc tam cấp thì cũng vào lúc hai anh cận vệ xuất hiện,
Sanh và Khình vừa
đến để đổi gác, làm ông giật mình. Tổng Thống Thiệu
và Đại Tá Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại Tá Điền ngồi bên phải của Tổng Thống Thiệu ở băng
sau; Đại Tá Điền ngồi vào chỗ ngồi chánh thức của Tổng
Thống Thiệu – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, Tổng Thống Thiệu liền hỏi Đại Tá Điền, “ có mấy cây súng? ” Đại Tá Điền đáp, “có hai
cây: một cây dài, một cây ngắn.” Đại Tá Thiệt lập tức đạp ga cho xe chạy vòng qua sân cỏ, lướt ngang qua thềm đại sảnh, rồi
tiến thẳng ra cổng chánh là
đầu đại
lộ Thống Nhất.
Trên khán đài danh dự nằm trên đại lộ Thống Nhất này, Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu, vào Ngày Quân Lực, đã từng đón nhận “ những chiến
sĩ anh hùng của các đơn
vị anh hùng ” về đây với những vòng hoa chiến thắng trong sự chào đón
hân hoan nồng nhiệt
của mọi giới đồng bào. Những lời hiệu
triệu của vị Tổng Tư lệnh Quân Llực Việt Nam Cộng Hòa trước những đoàn hùng binh chiến thắng đó vẫn còn nghe âm vang đâu đây khi xe ông
lướt nhanh qua.
Đại lộ này cũng
đã từng chứng
kiến nhiều dòng lịch sử đổi
thay của ba trăm năm Sài-Gòn
trong trái tim đồng bào miền Nam. Nay con đường này không còn tên là Thống Nhất nữa!
Đoàn xe rẽ trái trên
đường Pasteur rồi theo đường Hiền Vương
quẹo mặt trên đường Công Lý… tiến thẳng trên đại lộ Cách Mạng 1-11. Xe vào cổng chánh Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa rồi rẽ phải. Lúc xe Tổng Thống Thiệu
sắp chạy ngang nhà Đại Tướng
Khiêm thì tôi nhận ra ngay. Tôi nói với Sĩ, “xe Tổng
Thống tới.” Tôi vội tránh vào đoàn xe ngoại giao, nhưng không kịp nữa. Đèn xe Tổng Thống chiếu ánh sáng
màu vàng tím cực mạnh làm tôi chóa mắt. Xe không vào nhà Đại Tướng Khiêm mà chạy thẳng về
nhà Tổng Thống Thiệu.
Thời giờ đã quá cấp bách nên tôi khuyên Sĩ hãy về đi.
Trời đã vào đêm,
không khí vẫn còn hơi đất nhưng tôi cảm thấy có một cảm giác lành lạnh. Hai người Mỹ đứng bên cạnh xe bên kia đường làm cho tôi
vững tâm hơn. ( lúc đó tôi chỉ thấy có 2 người ). Ít ra thì sự có mặt của họ
cũng phần nào giúp tôi bớt lo ngại về
mặt an ninh. Riêng có một mình tôi thì làm gì được nếu có manh động nào xảy ra. Thật là may mắn, không có tiếng súng nổ, không có tiếng pháo của địch.
Trên đường Võ Tánh mới đây người người tranh giành, chen lấn nhau chạy giặc,
bóp kèn inh ỏi. Giờ này bắt đầu giới
nghiêm nên hoàn toàn vắng lặng. Cả một vùng không gian yên lặng nặng nề. Tôi vội vã bước vào nhà.
Tôi chạy thẳng lên phòng làm việc của Đại Tướng một lần nữa. Lúc này Đại Tướng đang ở phòng ngủ. Tôi lấy điện thoại gọi số
57340 là điện thoại nhà ba vợ tôi ở đường Sư Vạn Hạnh, khu An Đông. Khi nghe tiếng ông, tôi liền thưa: – “Dạ thưa Ba, một
chút nữa con đi.” – “Dượng Tư đi phải không? ” Ba tôi hỏi lại. – “Dạ, con đi.” Tôi
đáp. Tôi không nói “ dượng Tư đi” mà chỉ nhấn mạnh
hai tiếng “con đi”. Tôi biết ông hiểu ý tôi muốn nói gì.
Đồng thời tôi xin địa chỉ nhà ở bên Pháp. Tôi
phải chờ hơi lâu.
Có lẽ ông
không có sẵn địa chỉ
thành ra thời gian lúc
đó dài lê thê làm tôi đâm ra lo. Một lúc sau ông mới đọc địa chỉ
được. Tôi lấy lại bình tĩnh rồi đi mau xuống lầu.
Trong lúc tôi nói chuyện điện thoại ở trên lầu thì:
“Một chiếc
Mercedes màu xanh chạy vào cổng nhà Đại Tướng Khiêm. Người có tầm vóc
trung bình, tóc bạc, chải
gọn ra sau, da mặt bóng láng, trong bộ quần áo xám chỉnh tề, bước xuống
đất. Trong bóng đêm, Nguyễn Văn Thiệu giống như
người mẫu trong tạp chí
Gentleman’s Quarterly hơn là một cựu nguyên thủ quốc gia. Ông ta vội vã bước vào nhà mà không thèm nhìn chúng tôi.”
Phần II .
Tổng Thống Thiệu đã về đến nhà ông, thay đồ lớn (bộ đồ Trung Tá Chiêu đem về) rồi mới qua bên nhà
Đại Tướng
Khiêm như Frank Snepp nói ở trên. (Decent Interval, trang 435) . Khi Frank Sneep nói da mặt bóng láng có thể làm cho mọi người nghĩ là Tổng Thống Thiệu đang thoa kem. Thực tế, làm việc nhiều năm bên cạnh ông, chúng tôi cũng ngạc nhiên là ông có làn da mặt sáng bóng một cách tự nhiên, lạ lùng.
Từ trên lầu xuống, khi đi ngang qua phòng ăn tôi giật mình thấy Tổng Thống Thiệu
đang ngồi nói chuyện với Đại
Tướng Khiêm ở phòng khách. Hai ông đang uống rượu, tôi nghĩ vậy. Frank Snepp sau này xác nhận khi lái xe đưa Tổng Thống Thiệu
ra phi trường, lúc nói chuyện có nghe mùi rượu.
Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng
Khiêm nói chuyện vừa đủ nghe trong bầu
không khí tương đắc, giống như
những ngày nào Tổng Thống Thiệu tiếp
Đại Tướng Khiêm tại phòng ăn gia đình trong khu hậu dinh, dinh Độc Lập – nơi
ngự trị của vị lãnh đạo tối cao có uy quyền lẫy lừng nhất nước trong suốt gần
một thập niên dài.
Những văn kiện ngoại giao viết tay!
Trang tài liệu viết tay của cựu Tổng
Thống Nguyển văn Thiệu
trình Tổng Thống Trần văn Hương
ngày 25 tháng 4, 1975.
(Tài liệu do tác giả cung cấp)
Thật là điều may mắn, trái với suy đoán của tôi, tất cả mọi nhơn viên làm việc đều là những người trung thành. Họ ít ra cũng
đã trải qua một lần
kinh nghiệm. Đó là lần Đại Tướng Khiêm bị lưu vong dưới thời Đại Tướng
Nguyễn Khánh. Sau khi chia tay lại là những ngày sum hợp. Đại Tướng đi
rồi Đại Tướng lại về. Họ cũng
nghĩ rằng lần đi của Đại Tướng
kỳ này rồi cũng phải trở về.
Thiếu Tá Thông cũng có cho tôi biết: “ Khi mọi việc
xong xuôi Đại Tướng Minh cũng muốn
anh Tư về hợp tác. Mình chỉ đi lánh
mặt một thời
gian.” Cho nên nếu có đi
thì tôi hy vọng cũng được trở về. Thành ra các anh em kia cũng có một niềm hy vọng giống như
tôi. Ngày chúng tôi lên đường là ngày 25/4/1975.
Lúc đó cụ Trần Văn Hương cũng vừa lên làm Tổng Thống được 4 ngày mà đã có sự tiên liệu “ Đại Tướng Minh sẽ
mời anh Tư trở về “ thì cũng
cho chúng ta biết thêm một dữ liệu về các diễn biến chánh trị sau đó, đã được thấy trước. Sở dĩ được
biết trước là vì trước đó một ngày, là ngày 24 tháng Tư, tại tư dinh Đại
Tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu
, Tổng Thống Trần Văn Hương, Luật sư
Nguyễn Văn Huyền và Đại Tướng Dương
Văn Minh được trực thăng riêng của Đại Tướng Khiêm rước vào để họp cùng với Đại Tướng
Khiêm. Đây là buổi họp rất đặc
biệt và vô cùng quan trọng, phải giữ kín đến đỗi ngay cả Tổng
Thống Hương cũng phải dùng trực thăng riêng của Đại Tướng để
di chuyển. Buổi họp kéo dài từ 11 giờ 15 cho
tới gần 1 giờ trưa. Tôi quan sát
trên nét mặt lúc đó, khi ra về, các quí vị lãnh đạo quốc gia
đã tỏ ra không đồng thuận lắm – theo nhận
xét của riêng tôi – trước giờ phút lâm nguy của đất nước. . . Sáng hôm sau là ngày 25 tháng Tư, Đại Tướng Khiêm lại vào dinh Độc Lập họp với cựu
Tổng Thống Thiệu cùng với Tổng Thống
Trần Văn Hương và ông
Đại Sứ
Jean-Marie Mérillon của nước Pháp. . .
Chương trình họp nói trên tôi có ghi trong sổ tay.
Thông qua các buổi họp như vậy, những
nhà làm chánh trị, những nhà bàn luận thời cuộc, những nhà chạy tin có cơ hội để “ luận cổ suy
kim.” Thiếu Tá Thông là người hay suy luận
nhưng ông là người thành thật và rất tốt bụng. Ông có những lập luận
khéo léo, có ý cho tôi biết những gì ông nói chỉ là suy đoán, có nghĩa là không
phải ý đó phát xuất từ “ anh Tư.” Riêng tôi, qua những gì tôi quan sát tận mắt, nghe ngóng dư luận và theo dỏi báo chí, tôi
cũng có những nhận định giống như vậy –
Đại Tướng sẽ có cơ hội trở về
. . .
Bước ra phía trước nhà, tôi thấy ông Thomas Polgar đang ngồi tại bàn viết của sĩ quan Tùy viên.
Ông kiểm soát lại danh sách phái đoàn
để điền
tên vào parole documents, dựa vào bản văn của
Tổng Thống Thiệu.
Danh sách phái đoàn do cựu Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu trình lên Tổng Thống Trần
Văn Hương có nội dung như sau:
(Tổng Thống Thiệu viết tay)
Kính trình Tổng Thống Trần Văn Hương,
Thưa Cụ,
Để thực hiện công tác cụ giao phó, tôi kính xin cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết
để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du:
1. Đại Tá Võ
Văn Cầm
2. Đại Tá Nguyễn Văn Đức
3. Đại Tá Nhan Văn Thiệt
4. Đại Tá Trần Thanh Điền
5.Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu
6. Bs Thiếu Tá Hồ Vương Minh
7. Đại Úy Nguyễn Phú Hải (giờ chót không có mặt)
8. Phục dịch viên Nghị (giờ chót không có mặt)
Ngoài ra, Cựu Thủ Tướng Đại
Tướng Trần Thiện Khiêm cũng
cần đem
theo những sĩ quan và dân sự sau đây:
1. Trung Tá Đặng Văn Châu
2. Thiếu Tá Đinh
Sơn Thông
3. Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận
4. Ông Đặng Vũ (giờ chót không có mặt)
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./.
Kính chào Tổng Thống
(ký tên Thiệu)
Tổng Thống Trần Văn Hương phê thuận,
Đề ngày 25/4/75
Và ký tên Trần Văn Hương
Ở đây có một sự trùng hợp lịch sử. Khi viết danh sách phái đoàn để trình lên
Tổng Thống Trần Văn Hương, cựu Tổng
Thống Thiệu muốn Đại Tá Cầm đánh máy, Đại Tá Cầm không biết đánh máy,
ông Thiệu đành phải viết tay; khi có lịnh của Đại
Sứ Martin là phải mang theo bàn đánh máy khi đến nhà Đại Tướng Khiêm, ông Polgar quên đem theo bàn đánh máy. Thành ra hai
văn kiện: một là danh sách phái
đoàn của Tổng Thống Thiệu và hai là
tên điền vào mẫu parole documents đều không đánh máy, mà phải viết tay.
Cựu Tổng Thống Thiệu, với bản tánh cố hữu, người luôn luôn nghĩ
xa, ra lịnh cho Đại
Tá Cầm ở Đài Bắc làm nhiều bản photocopy danh sách phái
đoàn do Tổng Thống Trần Văn Hương chấp thuận,
phát cho mỗi người một bản để trong trường
hợp cần thì có thể làm bằng chứng với Sở Di Trú của quốc gia sẽ đến định cư. Lúc đó chúng tôi chưa biết đi đâu.
Tại hành lang trước nhà, trong
ánh sáng mờ mờ ảo
ảo, các ông Đại Tá Cầm, Thiệt,
Đức, Điền, Trung Tá Chiêu,
Bác sĩ Minh đang xúm xích bàn chuyện nhỏ to. Mọi người
đều ăn mặc chỉnh tề có vẻ như là những quan chức lớn
sắp lên đường đi công tác ở ngoại quốc
hơn là sắp đi tỵ nạn. Tất cả chúng tôi cũng không ai tin là sẽ đi tỵ nạn. Trên tay mỗi người xách một túi xắc nhỏ. Cũng cần nói thêm,
Đại Tá Cầm là người rất nhiệt thành với công vụ và cũng
là cấp thừa
hành “ một cách triệt để.” Sau khi Tổng Thống
Thiệu ra lịnh “mỗi người chỉ được
đem theo một xách tay nhỏ,” thì ông lại khuyên anh em “không nên mang theo gì hết – nên đi tay không! ”
Đoạn đường dài như vô tận
Đúng 9 giờ tối…
Vừa điền giấy xong thì ông
Thomas Polgar phân phát tờ parole document (tờ tạm cư) cho từng người.
Ngay khi vừa đến Đài Bắc, “Cơ quan
Đại diện Mỹ” tại đây lập tức thu hồi lại tất cả, duy chỉ
có mỗi Trung Tá Chiêu, không hiểu sao ông vẫn còn giữ được tờ giấy
này.
Chúng tôi lần lượt ra xe
và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đã
bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có
nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp xắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
Liền sau đó Tổng Thống Thiệu,
Đại Tướng Khiêm, Polgar,
Timmes cùng ra xe. Đại Tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng Thống Thiệu ngồi xe
sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng
Timmes và Đại Tá Đức, Trung Tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau
vào hai xe còn lại.
Thời gian từ lúc ông Thiệu đến nhà Đại Tướng Khiêm đến khi bắt
đầu ra xe kéo dài độ 10 phút!
Đoàn xe bắt đầu chạy
hướng về cổng chánh Bộ Tổng Tham Mưu,
vừa ra khỏi cổng thì quẹo phải, đi
thẳng vào cổng phi trường Tân Sơn Nhứt.
Tôi giật mình khi nhận ra cả khu vực
phi trường tối om. Dường như hệ thống
điện hoàn toàn bị cắt. Nhìn vào cổng VIP – khu vực dành riêng
cho các viên chức cao cấp – giờ nầy vắng tanh giống như
cổng vào bãi tha ma. Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hảng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất
cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó bóng một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới
chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sang, một loại máy bay giống như DC6. Khi
tới gần chiếc máy bay,
đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người. Xe thứ hai ủi tới suýt đụng vào xe đi trước vì trời tối. Hai xe sau tạt qua hai bên hông xe Tổng Thống Thiệu. Chiếc xe tôi ngồi vừa thắng gấp vừa bẻ tay lái kêu nghe ken két. Một cuộc biểu diễn ngoạn
mục. Dù đó là do sắp xếp hay chỉ là một “tai nạn” nhưng dưới con mắt an ninh họ
là những thành phần phải được liệt
vào hàng các tay bảo vệ yếu nhân chuyên nghiệp. Xe Tổng Thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường
phục, súng M16 dựng đứng bên hông, trong thế tác chiến… Chúng tôi
tông cửa xe, bước
xuống mau. Tổng Thống Thiệu đi trước,
Đại Tướng Khiêm theo
sau, rồi Polgar,
Timmes. Chúng tôi nối đuôi theo
sau. Hình ảnh ông Đại Sứ Graham Martin – một quan Khâm sai của Đại Vương quốc Hoa Kỳ – hiện
ra tại chân cầu thang máy bay như
một vị thần
hộ mạng, giống với hình ảnh ông thần miễu Ông Tà ở Ô-Môn quê tôi mà hồi nhỏ tôi đã tưởng tượng
ra: đôi mắt xanh, tóc bạc trắng, hai
tay dài lòng thòng… ai cũng phải sợ. Tổng
Thống Thiệu bắt tay ông Đại Sứ. Hai bên trao đổi mấy lời. Tất cả leo lên mau. Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Khiêm, tướng Timmes vào buồng danh dự. Tại
đây có bốn ghế bành bọc vải trắng. (Sau nầy mới biết đó là máy bay riêng của Đại Sứ Martin) Đại Sứ Martin vào tận buồng máy nói vài lời tiễn biệt
rồi vội vã rời máy bay. Chúng tôi mạnh ai nấy tìm chỗ ngồi ở các hàng ghế phía sau. Vào thời điểm nâỳ, Trung Tá Nguyễn Văn Phú Hiệp là phi công chiếc máy bay Air Việt Nam 727 có lịnh ứng trực,
chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng Thống Thiệu sử dụng. Trung Tá Hiệp trước kia là Trưởng phi hành đoàn trực thăng Phủ Tổng Thống. Anh Hiệp, giờ
chót không đi được, sau nầy chết
trong trại tù Cộng Sản. Cũng vào thời gian nói trên, một vài đơn vị trưởng các đơn vi phòng thủ Thủ Đô, và các đơn
vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt được nghe dư luận đồn đải
là có người rỉ tai: “ ông Thiệu sẽ dùng Air Việt Nam để
ra khỏi nước. . .”
Khi tất cả chúng tôi ngồi vào chỗ rồi thì Tổng Thống Thiệu
từ phía trước bước ra sau chỗ chúng tôi. Ông đứng giữa hai hàng ghế với khuôn mặt không còn giống
như hồi ở nhà Đại Tướng nữa. Nét nghiêm nghị như giận
dữ hiện rõ trên khuôn mặt như tôi đã từng chứng kiến nhiều lần trước
kia. Các sĩ quan làm việc quanh ông đôi khi phải đón nhận những phản
ứng dữ dội từ ông, thay
cho các đối tượng mà ông vì cần phải giữ
hòa khí ở một mức độ có thể coi được,
ông thường “giận cá chém thớt” và hay “phang nhầm” chúng tôi.
Với cái nhìn sáng quắc, mặt đỏ gay, Tổng Thống Thiệu gằn từng tiếng:
“Nè, các chú nhớ là không
được nói gì hết. Có ai hay
báo chí hỏi thì trả lời là không biết gì hết! Nghe chưa! ” Nói xong ông
liền trở về
phía trước.
Đoạn đường từ Bộ Tổng Tham Mưu
đến đây không xa, chỉ là một khoảng đường rất ngắn nhưng
với tôi nó thật dài. Cho tới bây giờ, khi ngồi ghi lại những dòng nầy tôi vẫn còn cảm thấy mọi
việc như vừa mới xảy ra!
Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn.
Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ
từ từ lăn bánh ra phi
đao, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng
lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc
phi cơ lượn một vòng trên bầu trời
“đen tối” của không phận SàiGòn, rồi hướng về biển Đông…
Tôi bật người ra thành ghế, hít một hơi thở thật dài, nhắm mắt lại; hai dòng lệ từ từ lăn xuống má…
Xin giã biệt quê hương…
tạm biệt
mọi người thân…
BÍ MẬT CỦA GÓI QUÀ .
Tôi ôm cái món quà
của Đại
Tướng trong suốt chuyến bay. Suy nghĩ vẩn vơ. Đi đâu làm gì ở xứ người. Một quân nhân Mỹ, đoàn viên phi hành ngồi gần cửa
cầu thang, luôn luôn bận rộn nhiệm
vụ liên lạc. Thỉnh thoảng anh liếc
tôi. Anh không cười cũng không nói gì.
Có lẽ anh thông
cảm hoàn cảnh của những kẻ sắp
xa nhà. Thỉnh thoảng tôi nhìn ra cửa sổ. Cũng chỉ là một màu đen.
Chúng tôi không ai
nói chuyện với
ai. Mỗi người
theo đuổi những ý nghĩ
riêng tư của mình…
Chiếc máy bay bắt đầu giảm độ
cao, đảo một vòng rồi từ từ hạ
cánh. Đường bay nằm dài trước mặt là phi trường Đài Bắc. Chiếc C118 bốn động cơ của Không lực Hoa Kỳ đáp xuống nhẹ nhàng rồi từ từ dừng hẳn. Tôi nhìn đồng hồ.
Đúng 3 giờ 40 sáng. Anh Hạ Sĩ
Quan mở cửa cầu thang. Gió ùa vào
nghe lành lạnh. Mọi người lần lượt xuống
máy bay. Tại chân cầu thang, dưới ánh điện lờ mờ, tôi nhận ra bà Nguyễn Văn Kiểu, phu nhân ông
Đại Sứ Việt
Nam Cộng Hòa tại Đài Bắc; một vị
Trung Tá, Tùy Viên Quân Sự tại tòa Đại Sứ Việt
Nam; một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao
Trung Hoa Dân quốc – ông này nói
tiếng Việt
rất giỏi; một hai người nữa tôi không biết tên; và một nhân vật không kém phần quan trọng, đó là Trưởng chi nhánh tình báo Hoa Kỳ tại Đài Bắc, tôi không biết tên. Gió ở Đài Bắc lạnh hơn Sài-Gòn.
Lại có
những cảm giác là
lạ lướt qua mau, khác
hơn nhũng cảm giác
ở quê nhà. Lòng bồn chồn
khó tả. Có một điều đặc biệt là không có mặt sĩ quan Di Trú vào lúc này tại phi trường
vì đây là một trường hợp ngoại
lệ . . . Để cho mọi việc có danh chánh ngôn thuận, và vào giờ chót muốn dành cho cựu Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng
Khiêm một danh dự của chuyến
đi, Tổng Thống Trần Văn Hương ký Quyết Định đề cử cựu Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu hướng dẫn một phái đoàn đi Đài Bắc. Bản văn có nội dung như sau:
( bản văn này Đại Tá Cầm viết tay )
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương
Quyết định
1 – Nay đề cử cựu Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng
Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng
Thống Việt Nam Cộng Hòa đến Đài Bắc để phân ưu cùng
Chánh phủ và Nhân dân Trung Hoa dân quốc nhân dịp Tổng Thống Tưởng
Giới Thạch tạ thế.
2 – Sau đó hai vị trên được đề cử
tiếp tục viếng thăm các quốc gia trên thế giới xét cần thiết trong vòng 6 tháng để làm sáng tỏ thiện chí hòa bình của Việt Nam Cộng Hòa đồng thời vận
động các Chánh phủ và nhân dân
các quốc gia đó hỗ trợ lập trường hòa bình của Chánh phủ và nhân dân
ta.
Chương trình thăm viếng sẽ do hai vị
tùy nghi quyết định thể theo sự
thuận lợi của tình hình
đối với các quốc gia đó.
3 – Yêu cầu Bộ Ngoại giao chỉ thị
các Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa yểm trợ cần thiết để nguyên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nguyên Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm cùng phái đoàn chu toàn nhiệm vụ giao phó.
4 – Chi phí công tác do Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng đài thọ trong khuôn khổ được luật lệ ấn định.
(Tổng Thống Hương viết thêm hàng chữ: trong khuôn khổ được
luật lệ ấn định).
Sài-gòn, ngày 25 tháng 04, 1975
(ký tên Hương)
Khi ký tên trên văn bản này Tổng Thống Trần văn Hương, một lần
nữa cho thấy sự cẩn trọng và nghiêm túc trong công việc, tác phong của một nhà lãnh đạo xuất thân từ giới mô phạm. Cụ Hương là một nhân sĩ, là một nhà chánh trị được đại
đa số nhân dân miền Nam ngưỡng
mộ. Cụ cũng là một nhà hành chánh nổi tiếng công bằng liêm khiết. Trần Văn Hương, một tên tuổi được đánh giá là
một trong vài nhân sĩ cuối cùng của miền Nam Việt Nam, đã quyết định ở lại sau 30 tháng Tư 1975 và kết thúc cuộc đời trên quê hương của mình…
Vào thời kỳ bầu cử Tổng
Thống năm 1967, lúc đó từ Đại
đội Trinh Sát / Sư
đoàn 5 Bộ Binh, tôi được điều
động khẩn cấp về Sài Gòn
để bảo vệ
an ninh cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ
tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia; khi
đi bỏ phiếu tôi chọn liên danh Trần Văn Hương – Mai Thọ Truyền thay vì liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ. Tôi là một quân nhân trẻ mang nhiều lý tưởng cũng như nhiều bạn trẻ khác. Các anh em ấy hầu hết đã tốt nghiệp đại học ở
trong nước cũng như từ ngoại quốc trở
về, đang phục vụ trong mọi ngành, mọi giới; họ làm
việc bên hành chánh cũng
như đang phục vụ
trong quân đội. Chúng tôi thường gặp gở, trao đổi ý kiến và cùng đi đền một nhận
định chung là quần chúng Nam Việt Nam, lúc bấy giờ, chưa
sẵn sàng đón nhận một Tổng Thống và một Phó Tổng Thống xuất thân từ quân đội.
Tổng Thống Thiệu và đoàn
tùy tùng của ông về nhà Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu.
Đại Tướng Khiêm và chúng
tôi về nhà Đại Tướng Khiêm.
Sau khi gõ cửa vài phút thì có người ra mở cửa. Tôi nhìn vào thấy bà Đinh Thủy Nga, bà Trần Bạch Yến.
. . đứng khép nép bên trong, vừa mừng vừa
lo. Đại Tướng bước vào trước. Chúng tôi lần lượt vào sau. Nghe có tiếng người nói chuyện lào xào, bà Trần
Thiện Khiêm thức
giấc. Bà bước ra khỏi phòng trong bộ áo ngủ, đứng tựa lan can nhìn xuống. Yên lặng trong vài giây rồi bà từ từ quỵ xuống sàn nhà. Bà
cố gắng lần
xuống tới giữa cầu thang, khi nhận ra Đại
Tướng, bà kêu lên, “ Anh đó hả? ” rồi òa lên khóc…
Những ngày ở Đài Bắc .
Tại một villa nhỏ 3 phòng ngủ có lầu ở ngoại ô thành phố Đài Bắc, Đại Tướng Khiêm và chúng
tôi không có việc gì làm, buồn và nhớ nhà nên thường hay bắt đài phát
thanh Sàigòn để theo dõi tin tức. Các sự kiện đáng chú ý nghe được qua làn sóng đài phát thanh được tôi ghi chép như sau:
Ngày 27 tháng 4 –
20 giờ Tổng Thống Trần
Văn Hương yêu cầu Quốc Hội
chọn người thay thế ông để thương
thuyết với Cộng Sản –
20 giờ 45 Quốc Hội họp. –
2 giờ 25 Quốc Hội biểu quyết chọn
Đại Tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống thế Tổng Thống Trần Văn
Hương.
Ngày 28 tháng 4 – 17 00 giờ: Lễ bàn giao chức vụ Tổng Thống giữa cụ Hương
và Đại Tướng Dương Văn Minh được
cử hành tại dinh Độc Lập Cụ Hương
trao quyền Tổng Thống lại cho Đại Tướng
Minh lúc 17 giờ 15. Tân Tổng Thống Dương
Văn Minh chọn cụ Huyền làm Phó Tổng Thống, ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ Tướng…Trong bài diễn văn cụ Hương nhấn mạnh “hãy quên oán thù, đừng tạo thêm oán thù”…
Ngày 29 tháng 4 . . .sinh
viên Huỳnh Tấn
Mẫm được thả. Lý Quí Chung
được đề cử Tổng trưởng Thông Tin. Cộng Sản phá cảng Newport, đốt
kho dầu gần xa lộ, chiếm vài xã ở Gò Vấp…
Ngày 30 tháng 4… Lúc 11giờ 15, Tổng Thống
Dương Văn Minh tuyên bố trao quyền lại
cho chánh phủ “Cách Mạng Lâm Thời miền Nam Việt Nam”. Có tin VC
đã cắm cờ trên thượng đài dinh Độc Lâp lúc 13 giờ. (giờ Sài-gòn…)
Các tin trên được tôi ghi nhận qua chiếc máy thâu thanh hiệu Zenith 4 băng,
có băng tần làn sóng ngắn, và nghe rất rõ tiếng nói của đài phát thanh Sài-gòn.
Cái radio đó
chính là món quà gói trong giấy màu hồng điều thật đẹp
mà tôi trân trọng cất giữ từ khi Đại
Tướng Khiêm trao cho tôi ở Sài-Gòn như đã nói ở trên.
Một thời gian sau đó, bà Anna
Chennault tuân hành lịnh của Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford từ
Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc, Đài Loan để gặp Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Khiêm.
Bà Anna Chennault là vợ của vị tướng
anh hùng thời Đệ II Thế chiến,
Trung Tướng Claire Lee Chennault Tư Lệnh Không Đoàn 14 của Không Lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa. Bà Anna
Chennault sau nầy là một nhân vật quan trọng trong Bộ Tham Mưu
tranh cử của ông Richard Nixon;
bà là người trung gian trong sự liên hệ mật thiết
giữa ông Nixon và Tổng Thống Thiệu trong thời
gian đó. Nhiệm vụ trong chuyến đi nầy
của bà là chuyển
lời Tổng Thống Hoa Kỳ yêu cầu Tổng Thống Thiệu và
Đại Tướng Khiêm
đừng vào nước Mỹ.
Như trước đã nói, Thủ Tướng Lý Quang Diệu thông báo là giới chức Mỹ muốn ông Thiệu sống lưu vong ở các nước Đông Nam Á. Tổng Thống Thiệu đã ở Đài Bắc trong một thời gian khá
lâu là đúng với những
gì chánh quyền Mỹ
muốn. Gợi ý của Tổng Thống Trần Văn Hương với
Đại Tướng Khiêm trước kia chắc có lẽ cũng do ý của tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài-gòn. Nhưng
theo những gì bà Chennault biết trước đó thì Hoa
Thịnh Đốn
đã chấp thuận và có kế hoạch đưa Tổng Thống Thiệu vào Mỹ. Điều này làm cho bà
Chennault rất bất mãn khi được lịnh qua gặp
ông Thiệu trong một tình huống thật khó xử vì chánh sách “nước đôi” của Hoa Kỳ; hơn nữa bà là bạn thân được Tổng Thống Thiệu tin cậy trong mối
liên hệ mật thiết giữa Tổng Thống Thiệu
và Tổng Thống Richard Nixon, mà huyền thoại- hay là sự thật – về bà đối với việc
đắc cử của Tổng Thống Richard Nixon năm
1968 còn đang được nhiều người
đề cập tới.
Trước hết bà Anna Chennault
qua nhà thăm Đại Tướng và bà Trần Thiện Khiêm. Tôi nhận thấy bà không có gì thay đổi sau nhiều năm vắng mặt
ở Sài-Gòn; bà vẫn
giữ được vẻ đẹp quí phái như
xưa trong chiếc áo
dài sườn xám
đậm màu với dáng người đài các của một nhà ngoại giao lỗi lạc đã
một thời gây nên
nhiều tranh cãi trong
chánh giới Hoa Kỳ.
Khi rời nhà Đại Tướng
Khiêm bà đi thẳng qua nhà Đại Sứ Kiểu
thăm Tổng Thống Thiệu. Bà Chennault
kể trong cuốn
hồi ký, The Education of Anna, như sau:
“Khi đến căn nhà nhỏ của Đại Sứ Nguyễn Văn Kiểu
tại Đài Bắc, tôi đi
vào cửa hông. Ông Kiểu tiếp tôi tại sân cỏ. Ông nói ít lời rồi nắm tay tôi dìu vào phòng khách. Ông Thiệu đã ngồi sẵn tại đó, xoay
lưng về phía tôi.
Thật hết sức
là bất ngờ và ngạc nhiên về những gì xảy ra cho ông Thiệu…
“Tôi đã từng gặp gỡ ông vào các ngày cuối tuần ở Bạch Dinh là tòa nhà
trắng đồ
sộ của Hoàng Đế Bảo Đại
trước kia dùng để nghỉ mát ở bãi biển xinh đẹp Vũng Tàu. Ông Thiệu cũng đã tiếp tôi tại dinh Độc Lập ở Sài-gòn, nơi mà trong một phòng khách vàng rộng lớn bên đại sãnh đường, ngay trước phòng làm việc của ông, có cặp ngà voi đứng chầu, đây là cặp ngà voi được xếp vào hàng lớn nhứt thế
giới…
“Một cảm giác đau buồn tràn ngập lòng tôi khi tôi bước tới vài bước để chào ông. Ông đứng lên
và xoay lại nhìn tôi.
Chúng tôi bắt tay và ôm chặt trong một giây yên lặng. Rồi cuối cùng nhìn
lên mặt ông, tôi thấy nước mắt ông dâng
trào.”
California, mùa Thu 2008
Nguyễn Tấn Phận .