|
THẦY GIÁO TRONG
TRẠI TÙ CẢI TẠO
Chỉ sau ngày
miền Nam lọt vào tay cộng sản 30/4/1975 chúng ta
mới biết đến ư nghĩa của hai chữ
“cải tạo” mà người cộng sản
thường dùng. “Cải tạo công thương
nghiệp” là tịch thâu các cửa hàng, xí nghiệp của
những người khá giả ở miền Nam. “Trại
học tập cải tạo” là nhà tù không thời hạn
dành cho viên chức, quân nhân của chính quyền VNCH. Từ
ngữ “cải tạo” dung trong hai trường hợp trên
bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng nhưng thực chất là
chánh sách cướp bóc tài sản và đày ăi những
người “bên thua cuộc”.
Đỗ
Mười, cố tổng bí thư đảng cộng
sản VN (1991-1997), từng tuyên bố trước sân ṭa
Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài G̣n ngày 20/02/1976 vào lúc
10 giờ 15 phút rằng “Giải phóng miền Nam, chúng ta có
quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa,
hăng xưởng, ruộng đất chúng nó. Xe chúng nó ta
đi, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô
lệ. C̣n chúng nó th́ ta đày đi lao động khổ
sai vùng kinh tế mới, vào nơi rừng sâu nước
độc. Chúng nó sẽ chết lần ṃn…”
Chủ
trương tàn ác, thâm độc như thế của “bên
thắng cuộc” trong cuộc chiến huynh đệ
tương tàn khích động bởi hai hệ thống
chính trị của thế giới: tư bản và cộng
sản đă làm nhân tâm người Việt Nam sau gần
nữa thế kỷ chiến tranh đă chấm dứt
vẫn ly tán không thể hoà giải với nhau được.
Với chủ
trương “thà bắt lầm hơn bỏ sót”,
người cộng sản Việt Nam, sau chiến
thắng gom hết những người miền Nam mà
họ cho là nguy hiểm cho chế độ vào tù,
Một bộ
phận không nhỏ trong ngành giáo dục miền Nam: giáo
chức sĩ quan biệt phái tức là những thầy
giáo do lệnh tổng động viên đă phải
nhập ngũ một thời gian trưỡc khi
được “biệt phái” về dạy học lại
cũng phải đi “học tập cải tạo”.
Tôi không may
cũng nằm trong thành phần đó. Năm 1975 sau khi
được thuyên chuyển từ trường trung
học Ngô Quyền, Biên Hoà về Trung Tâm Giáo Dục
Hồng Bàng Sài G̣n, những tưởng đời ḿnh
được thăng hoa sau 10 năm dạy học
từ miền tây đến miền đông trong đó
mất hơn gần ba năm trong lính, giờ
được về dạy một trường có quy
chế ưu đăi: học sinh là con cái những nhà tay
mắt ở Sài G̣n, trường này trước đó là
một trường tây và nay theo chương tŕnh song
ngữ Pháp Việt có giáo sư người Pháp giảng
dạy. Nhưng biến cố 30/4/1975 đă cắt
đứt con đường tương lai tươi
sáng trước mắt của tôi và vào hạ tuần tháng
6 năm đó tôi cũng như các đồng nghiệp cùng
hoàn cảnh như tôi nếm mùi tù cộng sản
được nguỵ trang là trại “học tập
cải tạo”.
Vợ tôi khi
đó đang mang bầu, nàng đưa tôi tới
trường Pétrus Kư để tŕnh diện những
tưởng sẽ gặp lại nhau sau 10 ngày như thông
báo của “ban quân quản Sài G̣n Gia Định”: mỗi người
mang theo tiền bạc, đồ dùng và thức ăn
đủ dùng cho 10 ngày. Giờ đây ngẫm nghĩ
lời của cố tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu về cộng sản đúng là một chân lư:”
Đừng tin những ǵ cộng sản nói, hăy nh́n
những ǵ cộng sản làm”. Có nhiều người
tưởng ḿnh chỉ đi “cải tạo” có 10 ngày
(sĩ quan cấp uư) hay 1 tháng (sĩ quan cấp tá và
tướng lănh) nhưng có người đi đến 17
năm.
Sau hơn 1 tháng
ở trại Trăng Lớn, Tây Ninh tôi bị đưa
về trại Long Khánh, bản doanh cũ của sư
đoàn 18 chúng ta. Nơi đây họ “biên chế”. (phân chia)
tôi vào một B (trung đội) toàn là giáo chức biệt
phái. Tôi thấy như vậy thoải mái v́ tất cả
là đồng nghiệp.
B trưởng là
một giáo viên tiểu học lớn tuổi người
Bắc tên Sơn mà anh em trong B thường gọi là
Sơn già để phân biệt với Sơn trẻ là A
(tiểu đội) trưởng, một giáo sư
đệ nhứt cấp người Nha Trang, tôi nằm
trong A của anh Sơn trẻ. Anh em trong B thường
chọc ghẹo anh Sơn già bằng cách nhại thơ
của Nguyễn Khuyến:
“Bác Sơn thôi
đă thôi rồi
“Nước mây
man mác ngậm ngùi ḷng ta”
Mỗi lần
bị anh em nào đọc hai câu thơ”chế” này, Sơn
già chỉ thốt ra hai tiếng:” nhảm thế!”.
Chiến
lược cộng sản là đấu tranh giai cấp và
họ cũng áp dụng điều này trong việc cai
quản tù. Ho đặt một thiếu uư làm đội
trưởng mà đội viên là trung uư và đại uư.
Trong B chúng tôi họ để một anh giáo viên tiểu
học coi một đội có cả các giáo sư trung
học hay một anh giáo sư đệ nhứt cấp
chỉ huy các giáo sư đệ nhị cấp. Họ
muốn gây mâu thuẩn trong những người tù cải
tạo: cấp dưới cũ “đ́” cấp trên
để “trả thù” việc ngày xưa họ bị “áp
bức”, “bốc lột”. Nhưng họ đă sai lầm v́
chế độ của chúng ta không giống như chế
độ của họ. Đặc biệt trong B giáo
chức chúng tôi, những người có học bị
bọn vô học cầm tù nhưng vẫn giữ tư cách
của người trí thức. Ngoài những lúc nói đùa
để quên những nhục nhằn trong cảnh tù
tội, chúng tôi vẫn đoàn kết, che chở và giúp
đỡ nhau.
Trong B3, A1 của
tôi có anh Nguyễn Sáu, người xứ Quăng, c̣n rất
trẻ chỉ ngoài 20, là giáo viên thể dục,
người cao lớn, khoẻ mạnh nên thường
giúp đỡ mọi người trong việc lao
động.
Có một lần
quản giáo (cai tù) cắt cử tôi lên khiẻng gạo
từ xe tiếp tế vào kho dự trử chung với
một số tù cải tạo ở các B khác. Tù cải
tạo lúc nào cũng đói v́ chưa bao giờ
được cho ăn đủ no nên có một số anh
em lén chọc thủng bao lấy một ít gạo bỏ túi
để về “cải thiện” bữa ăn (bù thêm vào
bữa ăn chỉ lưng bụng). Tôi trông thấy
nhưng làm ngơ. Khi quản giáo biết bị mất
gạo gọi tôi lên hỏi có thấy ai ăn cắp
gạo không. Tôi trả lời v́ bận khiêng gạo nên
không thấy ǵ. Quản giáo phạt tôi về tội
thiếu “cảnh giác” không giúp “cách mạng phát hiện
những kẻ ăn cắp tài sản của nhân dân”. Anh
ta phạt tôi gánh hai khối (2 m3) đá đi đổ lên
con đường từ cổng trại tới kho
lương thực. Lúc đó trời đă tối, tôi
nghĩ ḿnh có gánh tới sáng cũng không xong.
Được
tin tôi bị phạt gánh đá, anh Nguyễn Sáu ra khiêng
đá giúp tôi. Nhờ vậy, đến khoảng 10 giờ
tối th́ tôi đă thi hành xong lệnh phạt.
Trong B tôi có anh
Nghiêm Dũng là giáo sư môn Quốc văn, anh với
tôi cùng ở quận 4, anh ở góc Đỗ Thành Nhân và Lê Văn Linh c̣n tôi ở gần ngả tư Đỗ Thanh Nhân và Tôn Đản chỉ cách nhau vài trăm thước
nhưng măi đến khi vào trại cải tạo Long Khánh
mới biết nhau.
Nghiêm Dũng có bằng cữ nhân Việt Hán nên đọc và viết chữ Hoa rất thành thạo. Tôi vốn thích văn chương nên thường đọc thơ Đường và nhờ Dũng giải thích những từ Hán Việt nào ḿnh không hiểu nghĩa.
Ngoài giờ lao động , lúc rảnh rổi chúng tôi thường ngâm nga những bài thơ của Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Lư Bạch, Bạch Cư Dị…Anh Nguyễn Sỹ, giáo viên người
Quăng nhờ Dũng diễn nôm bài thơ tứ tuyệt Tĩnh Dạ Từ của Lư Bạch và đă dịch thành bài thơ tiếng nôm không kém các bản dịch của các nhà thơ lớn của ta:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
“Nghi thị địa thượng sương
“Cử đầu vọng minh nguyệt
“Đê đầu tư cố hương””
(Lư Bạch)
“Trước giường ánh nguyệt lung linh
“Trông trên mặt đất như h́nh sương sa
“Ngẩng đầu nh́n bóng Hằng Nga
“Cúi đầu tưởng nhớ quê nhà xa xăm”
(Nguyễn Sỹ phỏng dịch)
Những cải tạo viên chúng tôi lúc đó cảm thấy thấm thía nối ḷng xa quê,
xa vợ, xa con
qua bài thơ này.
Ngoài tài văn thơ, Dũng c̣n là một tay cờ tướng rất giỏi. Tôi đánh cờ không hay nhưng nhờ Dũng làm quân sư nên thường thắng các đối thủ ngang tầm để đem về cho ḿnh những cục đường tán ngọt lịm ( trong trại mọi người đều thèm đường v́ thiếu chất ngọt).
Tôi vốn
được “cưng”, lúc c̣n độc thân ở với
cha mẹ không biết làm ǵ cả ngoài việc đi học
và đi dạy nên khi vào tù ngay đến nấu
nước sôi tôi cũng không biết. May mắn, ở
chung với các đồng nghiệp tháo vác nên tôi
được chỉ dẫn để biết cách lao
động tay chân từ việc cuốc đất,
trồng rau, nấu cơm, chặt cây, cắt tranh,
đục mộng gỗ…
Khi chuyển trại
về Ka Tum, Tây Ninh th́ đội giáo chức bị xé
lẻ. Chỉ c̣n tôi với anh Nghiêm Dũng và anh Vui, giáo
viên tiểu học về cùng một B.
Dũng và tôi
ở tổ đi rừng chặt cây và cắt tranh c̣n Vui
làm ở tổ rèn.
Ở trại
này, tù cải tạo được cho phép báo gia đ́nh lên
“ thăm nuôi”. Lần đầu tiên tôi gặp lại
vợ con tôi sau hơn một năm xa cách. Khi
tôi đi tŕnh diện “học tập cải
tạo” th́ con tôi c̣n ở trong bụng mẹ,
ngày vợ tôi đi thăm nuôi tôi nó
đă biết đi lẩm chẩm. Tôi
phải đi bộ hơn 5 cây
số từ trại ra
Bổ Túc, địa điểm thăm nuôi.
Gia đ́nh tôi được ở trong
một cái lều
riêng để tṛ chuyện. Tôi
kể chuyện nhục nhằn trong kiếp tù cải
tạo mà chỉ cần nh́n qua dáng gầy
g̣ của tôi
th́ vợ tôi
cũng hiểu. Vợ tôi
kể chuyện thay đổi của xă hội
bên ngoài. C̣n con tôi chỉ biết ngơ ngác nh́n
người đàn ông chưa hề gặp.
V́ thiếu
thốn đủ thứ trong trại tù nên
khi tôi viết thơ về gia đ́nh, tôi
xin: đường, bột ngọt, đậu, thịt
chà bông, nếp, kẹo, bánh, lạp xưởng...nên
Hiếu, thằng em tôi đă gánh hai cái ba
lô nặng trĩu thức ăn theo chị dâu
lên cho tôi. Ba tôi khi đọc thơ tôi nói với
vợ tôi: “bộ chồng con tính
mở tiệm tạp hóa ở trong trại hay
sao”. Đồ tiếp tế nặng quá, tôi
không thể mang về trại một lần nên dùng
cách sau: tôi mang
túi đồ thứ nhứt đi một
khoảng rồi bỏ xuống, đi
trở lại mang túi thứ hai và tiếp
tục như thế cho chặng
kế tiếp.
Do đó khoảng đường hơn 5km
từ Bổ Túc về trại biến thành
hơn 15 km. Khi về gần tới trại th́ tôi
gặp Vui đốt đuốc đi t́m tôi
v́ trời đă quá khuya mà Vui chưa
thấy tôi về tới trại.
Lần thăm
nuôi thứ hai của tôi, vợ tôi đi chung
với vợ Nghiêm Dũng v́ tôi và Dũng
nằm trong danh sách thăm nuôi cùng ngày. Khi vào lều nói
chuyện, vợ tôi kể chuyến hành tŕnh gian nan
của mẹ con nàng từ Sài G̣n lên Bổ Túc.
Nàng đă phải đi xe hơi chạy
bằng than đá và v́ ngối phía sau nên
phải chịu sức nóng và khói phát ra từ b́nh
than khổng lồ phía sau xe. Rồi mẹ con nàng
phải trải chiếu năm dưới đất
trong nhà dân, được biến thành
nhà trọ để qua đêm...Nghe nàng
kể, tôi thương cảm thân phận người
vợ của những người ở “bên
thua cuộc”. Thằng con trai tôi đă lớn thêm
một chút, đi chạy vững vàng nhưng vẫn
ngơ ngác nh́n tôi như người xa lạ.
Rút kinh nghiệm
lần thăm nuôi đầu, lần này tôi
và Dũng “hợp đồng tác
chiến” dùng một cây đ̣n để hai
người cùng gánh ở hai đầu tất
cả các túi quà nên không phải mất gấp ba
lần khoảng đường
như tôi lần trước.
Tôi
và Vui ở cùng một A nên khi
nào được người nhà tiếp
tế chúng tôi thường “cải
thiện” một vài món như cháo, chè để “bồi
dưỡng” (bồi bổ sức
khỏe) ở trong cái lều nhỏ làm
nhà bếp phụ của A phía sau buồng ngủ.
Một ngày
chủ nhựt cuối năm 1976, mọi
người được
nghỉ lao động. Tôi đang ngồi
viết thơ cho gia đ́nh th́ có một
tiếng nổ long trời vang ra hướng ḷ rèn.
Vui, bạn tôi ở trong tổ ḷ rèn. Lo
lắng không biết Vui có bị ǵ không nên tôi chạy
lên ḷ rèn. Tới nơi, một cảnh tượng
khủng khiếp hiện ra trước mắt tôi. Vài
người nằm sóng soài trên nền đất trong
vũng máu. Có người thân thể không c̣n nguyên
vẹn. Tôi cố nhận diện xem có Vui trong
số nạn nhân đó không. Th́nh ĺnh sau lưng
tôi có tiếng của Vui:” Ân ơi ḿnh may quá, hôm
nay nghỉ, ḿnh không lên ḷ rèn.”
Sau đó tôi được
biết, anh tổ trưởng ḷ rèn là một
sĩ quan công binh, nhân ngày nghỉ anh đem
những quả đạn đại bác
bị lép đem về cùng một
số bạn cùng tổ cưa
ra để lấy thuốc nổ làm
pháo đốt chơi trong dịp Tết
sắp đến. Hậu quả: nhiều
người thương vong.
Sau tết 1977,
tôi, Nghiêm Dũng và Vân, giáo sư lư hoá dạy ở một
trường miên tây bị chuyển trại về Z30D, Hàm
Tân, Thuận Hải (B́nh Tuy và B́nh Thuận trước 1975)
c̣n Vui th́ ở lại Ka Tum. Trại này do công an quản lư
nên mỗi B được dắt vào một căn
nhà dài. Trong nhà hai bên là hai dăy sạp làm
chỗ ngủ cho tù, cuối nhà là cầu
tiêu. Ngay buổi tối đầu tiên, sau
khi điểm danh bọn tù trong B tôi phải vào
nhà dài để ngủ và cán
bộ quản giáo khóa cửa ngoài. Tôi nghỉ, nếu
ban đêm xảy ra hỏa hoạn th́ bọn
tù trong B tôi sẽ thành heo quay hết. Bọn công an
coi tù xem tánh mạng của tù rẻ mạt.
Sáng hôm sau,
trại biên chế các tổ lao động.
Tôi được biên chế vào tổ mộc
và được cử làm tổ phó. Công
việc của tôi là giữ các dụng
cụ mộc và khi tới nơi làm việc
th́ đo vẽ những mănh
gỗ để người khác cưa và ráp
lại thành máng heo. Kể ra tôi cũng đươic
nhàn nhă với công việc đó.
Tổ trưởng tổ mộc của tôi
là một anh nhân viên của
phủ đặc ủy t́nh báo. Anh này
là người ít học và tính nết
nhỏ mọn, Về sau, khi tôi được
thả về tôi gặp một vài người
bạn đồng tù được thả sau
tôi cho biết, anh tổ trưởng mộc của tôi
về sau được trại cử làm
trưởng trại cưa máy và anh bị tại
nạn lao động nên mất một cánh tay.
Tôi
và Vân ăn chung, nhờ Vân nấu ăn khéo
nên tôi có những bữa ăn ngon với những
thứ gia đ́nh gởi vào.
Một buổi
sáng, khi tù các nhà tập họp ngoài sân th́ tôi
ngạc nhiên khi thấy nhiều cán bộ công an
xuất hiện trước chúng tôi. Khi hàng
ngũ tù nhân đă ổn định
th́ cán bộ trại trưởng, một ông
già khoảng 60 tuổi, cho chúng tôi biết “hôm nay
có một loạt biên chế mới,
một đồng chí công an sẽ đọc
tên những người sẽ được
chuyển qua nhà mới”. Tôi có linh cảm những
người được đọc tên
sẽ được thả về. Trong
số những
người được đọc tên
có Nghiêm Dũng và Vân nhưng không có tên tôi. Khi
những người có tên
trở về chỗ ở lấy đồ đạc đem
qua chỗ mới, tôi nhờ hai người
bạn đồng tù thân thiết chuyển lời
nhắn của tôi về cho vợ tôi một
khi được ra khỏi trại.
Ngày hôm sau,
những người được gọi tên hôm qua
từ nhà dài mới trú ngụ hôm qua, khăn
gói ra tập hợp ngoài sân. Sau khi cán bộ công
an điểm danh xong, họ đứng lên
và được cán bộ công an dẫn ra cổng
trước đôi mắt thèm thuồng của
những người tù c̣n lại. Ít lâu sau tôi
nhận được thơ vợ tôi cho
hay, Dũng và Vân có ghé nhà gởi lời nhắn
tin của tôi đến nàng. Vợ tôi cho hay hai
người bạn của tôi được
thả về đă được cho dạy
học lại v́ các trường học đang
thiếu thầy giáo. Nàng nói hy vọng tôi sẽ được
thả ra một ngày không xa với lư do tương
tự..
Thật
vậy, đầu tháng 9 năm m
1977 tôi được thả ra sau hai năm ba
tháng trải qua bốn trại tập trung cải tạo.
Sau khi ra tù, hôm
được tin Vui được thả, tôi và Dũng
có đến nhà Vui thăm anh. Nhà anh Vui ở trên cây cầu
bên hông chợ B́nh Tây. Ba chúng tôi qua quận 8, vào một quán
nước để hàn huyên.
Đôi ba năm
sau, có người cho tôi biết vợ Vui đă mất và
Vui đă dọn nhà đi nơi khác.
Sau khi được thả tôi về dạy trường cấp 3 Nguyễn Trăi c̣n Dũng dù có bằng cử nhân nhưng chỉ được dạy trường cấp 2 Nguyễn Huệ c̣n vợ Dũng dạy Nguyễn Trăi.
Khi tôi mở lớp luyện thi vào lớp 10 Nguyễn Trăi tôi có mời Dũng phụ trách môn Văn.
Về sau vơ Dũng mất, Dũng đi thêm bước nữa. Người vợ sau của Dũng cũng là cô giáo.
Dũng có hai người em trai cùng cha khác mẹ là Nghiêm Tiến và Nghiêm Đạt đều là học sinh Nguyễn Trăi. Nghiêm Đạt là học tṛ của tôi. Cả hai đều là kỷ sư điện toán cùng ở
Montreal, Canada với tôi.
Sau khi ra hải
ngoại,năm 2008, trong chuyến về VN đầu tiên tôi có nhờ một người bạn chung dẫn đến nhà Dũng và mời anh ra một quán nước chuyện tṛ. Sau đó, khi tôi tổ chức sinh nhật tại khách sạn NW, tôi gọi điện thoại anh nhiều lần để mời anh tham dự nhưng không được.
Từ đó, trong những lần về VN tôi không gặp được anh, chỉ theo dơi anh qua facebook và được biết anh nhờ giỏi chữ Hán nên đă học thành đông y sĩ. Anh là y sĩ trưởng pḥng khám bệnh đông y miễn phí ở Linh Quang Tịnh Xá. Anh thường dẫn một phái đoàn đông y đi chữa bệnh
miễn phí nhiều nơi.
Lần về VN này, t́nh cờ một em học sinh cũ của tôi ở Nguyễn Trăi có học cấp 2ở Nguyễn Huệ cho biết Nghiêm Dũng đă ra đi cách đây không lâu làm tôi bàng hoàng.
Trong cuộc đời, Nghiêm Dũng làm hai nghề cao quư: thầy giáo để dạy người và thầy thuốc để cứu người. Như vậy, anh đă giúp đời nhiều gấp đôi tôi. Chắc chắn ở bên kia thế giới anh rất thanh thản.
Về phần
các anh Sơn già, Sơn trẻ, Nguyễn Sỹ, Nguyễn
Sáu, Vui, Vân và những đồng nghiệp cùng ở tù
cải tạo với tôi ở trại Long Khánh năm 1975
và 1976 tôi không nghe tin tức ǵ. Cầu mong các anh vẫn
khoẻ mạnh dù ai nấy bây giờ cũng đă lớn
tuổi lắm rồi.
Montreal ,
đầu thu 2023
Huỳnh Công Ân
(Thân tặng các
đồng nghiệp giáo chức biệt phái từng đi
tù cải tạo)