SÀI G̉N VÀ TÔI
Đèn Sài G̣n
ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho
ngọn tỏ, ngọn lu
(Ca dao)
TUỔI THƠ Ở QUẬN 4, SÀI
G̉N
Tuy tôi sinh ra
ở tỉnh B́nh Dương nhưng tôi sống phần
lớn cuộc đời ở thành phố Sài G̣n, ngoài
một thời gian ngắn đi dạy học ở Trà
Vinh. Ngay trong 6 năm dạy học ở Biên Ḥa, mỗi
tuần tôi chỉ ở lại đó có một đêm. Sau
này ra nước ngoài, chỉ sau 22 năm xa quê hương
tôi lại trở về với Sài G̣n hàng năm, mỗi
lần vài tháng. Tôi đă chứng kiến sự thay da
đổi thịt của thành phố này qua bao thăng
trầm của thế sự.
V́ t́nh h́nh mất
an ninh ở quê nhà trong những năm khởi đầu
cuộc chiến tranh Việt Pháp, ba tôi đă đem vợ
và đứa con đầu ḷng là tôi từ giă ấp Bến
Đồng Sổ, xă Lai Uyên, quận Bến Cát, tỉnh
Thủ Dầu Một lên Sài G̣n sinh sống từ năm
1946. Ở đây má tôi đă mất đứa con thứ
hai tức là em kế tôi v́ bạo bệnh. Nó tuy thuộc
ḍng họ Huỳnh nhưng v́ thời cuộc lúc đó
phải lấy họ mẹ là họ Trần.
Ban đầu,
gia đ́nh tôi mướn nhà ở Phú Nhuận. Ba tôi đi
may cho bác ba tôi có tiệm may trên đường Matelot Manuel
(Tôn Đản bây giờ) thuộc quận 6 (bây giờ là
quận 4), ngay chỗ tiệm thuốc bắc của ông
thầy Sói sau này. Tôi c̣n nhớ lúc đó tiệm của bác
tôi là nhà sàn. Ba tôi phải đi bộ từ Phú Nhuận
sang quận 6 để đi làm.
Sau này, ba tôi có
một ít tiền nên mua một căn nhà lá trong con hẻm
gần mặt đường Matelot Manuel, đối
diện chợ Cầu Cống. Quận 4 thời đó c̣n
rất hoang vu. Đa số nhà cửa tập trung quanh
chợ Xóm Chiếu, dọc theo đường Tôn
Đản. Phía trong chợ Cầu Cống là đồng ruộng
chạy tới đường Tôn Thất Thuyết.
Từ đường Tôn Đản, người ta nh́n
thầy đường Bến Vân Đôn xuyên qua cánh
đồng bát ngát ở giữa.Những buổi trưa,
tôi thường trốn giấc ngủ trưa bắt
buộc đi vô một trong hai ngôi ruộng đó
để bắt cá thia thia dù biết rằng lúc về
sẽ bị ăn đ̣n.
Tuổi thơ
của tôi chỉ quanh quẩn ở trong quận 4: đi
tắm sông ở Bến Súc, đá banh ở sân cát kho 11,
bắt cá ngoài ruộng hay đi coi chớp bóng ở
rạp Nam Tiến. Thỉnh thoảng ba má tôi dẫn tôi và
thằng Quan (em kế sau đứa đă mất) đi qua
Chợ Cũ ăn cơm thố. Có lần ba tôi dẫn tôi
đi xem chớp bóng ở rạp Catinat, trong một con
hẻm của đường Tự Do. Hôm đó rạp
chiếu một phim nói tiếng Pháp mà không có phụ
đề Việt ngữ, tôi chẳng hiểu ǵ cả. Khi
hết phim, đèn bật sáng tôi nh́n quanh thấy khán
giả đều là ông tây, bà đầm.
Lớn lên chút
nữa, tôi có những chuyến đi chơi xa: Sở Thú
hay Vườn Tao Đàn. Tôi c̣n nhớ có một lần tôi
theo ba má đi xem Kẹt Mết (Hội Chợ) ở vườn
Tao Đàn, khi vừa vào cửa, một số nhân viên
hội chợ chăn tôi lai và trao cho tôi một cái bong bóng và
nhiều bọc bánh kẹo. Tôi ngạc nhiên và mừng
rỡ.về những món quà bất ngờ. Sau này tôi
mới biết hôm đó tôi là người khách thứ 1000
hay 10.000 ǵ đó của hội chợ nên được
tặng quà kỷ niêm.
Những năm
tôi c̣n nhỏ của đầu thập niên 1950, Noel trong kư
ức của tôi là những lồng đèn h́nh ngôi sao màu
đỏ treo trước nhà những người theo
đạo Thiên Chúa, cây thông thật cao với các bóng đèn
nhỏ đủ màu lấp lánh và hang đá bằng
giấy bồi trong đó có h́nh tượng Chúa Hài
Đồng, Đức Mẹ Maria, các Thiên Thần, mục
đồng và con chiên...ở nhà thờ Xóm Chiếu. Tôi theo
nhóm bạn con nít từ xóm Ḥa B́nh, gần chợ Cầu
Cống, Khánh Hội đi bộ xuống nhà thờ đó
ở gần bến đ̣ Long Kiễng để xem
người ta làm lễ. Lúc về nhà th́ đă quá muộn
và ba tôi chờ sẵn ở cửa để cho tôi một
trận đ̣n nên thân v́ tội đi chơi khuya. Thế
mà, năm nào cũng vậy tôi vẫn trốn nhà đi xem
lễ Noel dù biết rằng về sẽ bị đ̣n.
Lúc độ 8, 9
tuổi mỗi lần Tết đến th́ tôi
được ba tôi may cho một bộ pyjama mới mà
chiều 30 Tết đă được bận đi
chạy chơi với các bạn trong xóm. Trong túi, rủng
rỉnh một ít tiền ĺ x́ sớm tôi chạy t́m
những ṣng bầu cua cá cọp để đặt
cược.
Ngoài ra, trong
những ngày Tết, một thú vui khác là ở nhà
đọc báo Xuân. Ngoài những bài viết bên trong về
phong tục truyện ngắn, kư sự, thơ...về mùa
Xuân th́ h́nh b́a bên ngoài làm tôi chú ư nhất. Có tờ báo
đăng ngoài b́a h́nh các nghệ sĩ cải lương,
ca sĩ hay minh tinh điện ảnh như Thanh Nga, Thanh
Thuư, Thẩm Thuư Hằng...Nhưng tôi thích nhất là trang b́a
báo Xuân Tiếng Chuông của ông Đinh Văn Khai v́
thường in tranh vẽ h́nh người đẹp
của hoạ sĩ Lê Trung. Gương mặt toàn mỹ
của người đẹp đó ám ảnh tâm hồn
tôi từ tuổi ấu thơ.
THỜI HỌC SINH Ở SÀI G̉N
Sau khi đậu
bằng tiểu học, ba má tôi gởi tôi học ở
lyceum (tiếng Latin nghĩa là trường trung học)
Nguyễn Văn Khuê trên đại lộ Nguyễn Thái
Học, gần chợ Cầu Muối.
Từ đệ
thất tới đệ tứ, tôi đi bộ từ nhà
đến trường theo lộ tŕnh đường
Đỗ Thành Nhơn, quẹo trái theo đường Bến
Vân Đồn, lên cầu Ông Lănh rồi xuống đại
lộ Nguyễn Thái Học. Bận về tôi theo lộ
tŕnh ngược lại. Có rất nhiều học tṛ
quận 4 đi học chung trường với tôi nên
dọc đường chúng tôi tṛ chuyên vói nhau quên cả
mỏi chân.
Sau khi tôi
đậu bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp,
ba má tôi thưởng cho tôi một chiếc xe đạp
mới ráp Từ đó, tôi khỏi phải lội bộ
đến trường nữa.
Tôi tiếp
tục học lớp đệ tam và đệ nhị
ở trường Nguyễn Văn Khuê đến khi thi Tú
Tài 1.
Sau khi đậu
Tú Tài 1, tôi thường đi chơi với các bạn
đồng lứa ở khu tôi ở. Người bạn
từ thuở ấu thơ là Nguyễn Văn Đối, ở
hẻm nhỏ có tiệm bán cơm ở gần nhà bảo
sanh Cô Mụ Điếc, cha làm thợ hớt tóc sống
với mẹ kế. Có một thời gian dài chúng tôi không
chơi với nhau cho măi đến khi học lớp
dệ nhất. Một người bạn khác là Phạm
Văn Cảnh, con của bà chủ bar Ánh Sáng, nhà trên
đường Tŕnh Minh Thế giữa ngả ba Tôn
Đản và hẻm ḷ bánh ḿ. Cảnh học chung với
tôi ở trường Nguyễn Văn Khuê và rất
giỏi Pháp Văn có lẽ nhờ mẹ anh ta mở bar
từ thời c̣n lính Pháp. Qua Đối tôi quen với
Lương Trọng B́nh, nhà ở trong hẻm
đường Tôn Đản, đối diện nhà ông
hộ Lắm (nay là hẻm tiệm vàng Đức Tín).
Cũng qua Đối tôi quen thêm Nguyễn Công Thiểm, con
trai lớn của nhà may Thiêm, trên đường Tŕnh Minh
Thế, lúc trước ở bên kia đường, sau
dời qua phía bên này bên cạnh hăng Triệu Tiết.
Một người bạn mới nữa là Đào Hữu
Thọ, nhà cũng ở đường Tŕnh Minh Thế
gần Bến Súc đối diện nhà thuốc tây Khánh
Hội ( mà gia đ́nh tôi thường gọi là tiệm
thuốc tây thầy Lang v́ mặt ông bán thuốc bị lang
trắng).
Tôi đậu
bằng Tú Tài 1 hạng b́nh thứ (assez-bien) nên khi nộp
đơn vào học lớp đệ nhất
trường công lập Chu Văn An th́ tôi được
nhận. Từ đó, khi đi học tôi mặc
đồng phục quần xanh, áo trắng, trên ngực áo
gắn phù hiệu tên trường.
Ban đầu,
tôi đi xe đạp đến trường và
thường đi chung với một người bạn
cùng lớp tên Phạm Trọng Ái, nhà ở đường
Huỳnh Quang Tiên, quận 2 (đường Hồ Hảo
Hớn, quận 1 bây giờ). Lộ tŕnh chúng tôi, sau khi tôi
ghé nhà anh Ái để đi chung là Vơ Tánh, đại lộ
Cộng Hoà, đường Thành Thái và cuối cùng là
đường Hùng Vương. Trường Chu Văn An
nằm bên hông nhà thờ Ngă Sáu.
Một kỷ
niệm đáng nhớ là khi chúng tôi đi trên
đường Vơ Tánh, thường gặp một cô
nữ sinh trường nữ trung học Đức Trí
(gần rạp hát Quốc Thanh), đi bộ đến trường.
Cô có dáng đi rất đẹp và khi chúng tôi chạy qua
khỏi cô, ngoái nh́n lại th́ gương mặt cô cũng
đẹp. Ái xúi tôi xuống xe “cua” cô ta. Sau vài lần do dự,
một hôm tôi bạo gan, ngừng xe đi theo cô ngỏ
lời làm quen. Nhưng cô ta không thèm trả lời và không nh́n
tôi mà cứ đi thẳng. Tôi “quê” lắm nhưng chỉ
có thằng bạn thân ḿnh chứng kiến chứ không có ai
khác nên cũng đỡ ngượng. Tôi chỉ là một
anh học tṛ, quần xanh, áo trắng đi xe đạp
chắc không phải là “típ” người mà người
đẹp lưu ư. Tôi rủa thằng bạn ḿnh đă xúi
dại.
Về sau, tôi
không đi học bằng xe đạp nữa mà dùng xe buưt.
Từ nhà tôi đi xe buưt từ ngả ba Tôn Đản và
Tŕnh Minh Thế đến công trường Diên Hồng (công
trường Quách Thị Trang bây giờ). Chỗ này là
bến xe buưt trung ương. Tất cả các tuyến xe
buưt đều đi và đến tại đây. Tôi c̣n
nhớ hệ thống xe buưt ở Sài G̣n ngày xưa gọi
là Công Quản Chuyên Chở Công Cộng mà quản
đốc là trung tá Trần Thiện Thành (anh hay em của
đại tướng Trần Thiện Khiêm).
Tôi đi
tuyến đường chạy ngang trường Chu
Văn An. Những lần đầu th́ tôi xuống tại
trạm bên kia đường qua khỏi trường
một đoạn. Sau này, bắt chước các bạn
học chung trường, khi xe chạy chầm chậm
ngang trường th́ chúng tôi nhảy xuống. Dĩ nhiên
theo quán tính, chúng tôi phải chạy tới một
đoạn nữa mới dừng lại để
khỏi té. Thật là một hành động điên rồ
của tuổi trẻ.
Nhờ đi
học trường Chu Văn An, tôi mới có dịp khám
phá Chợ Lớn nói chung và quận 5 nói riêng. Tôi trông
thấy trường Đại Học Y Khoa với cái nhà
xác đầy chuyện đồn đải ghê rợn,
bệnh viện lao Hồng Bàng, bệnh viện Chợ Rẫy
cách đó không xa hay trường Trần Khai Nguyên của
người Tàu phía sau lưng trường tôi trên
đường Minh Mạng.
Cuối năm
học, tôi và các bạn cùng lớp Trần Văn Thám (sau
này học kỷ sư công chánh), Nguyễn Cao Thuận (du
học Canada, kỷ sư tiến sĩ điện) , Trương
Tuấn Dzỉnh (du học Úc) và Phạm Đặng Long
Cơ ( học y khoa, bây giờ là bác sĩ phụ khoa ở
nam Cali) được nhận thưởng của
tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Tuy phần
thưởng chỉ là những cuốn sách đại
học do cơ quan Asia Foundation tặng cho bộ Giáo
Dục nhưng đối với chúng tôi đó cũng là
kết quả của một năm miệt màu trên ghế
nhà trường. Hơn phân nửa số học sinh
lớp tôi sau này được học bỗng du học
ở ngoại quốc. Riêng tôi v́ hoàn cảnh gia đ́nh lúc
đó khó khăn nên từ chối học bỗng Colombo
đi du học Canada để ở lại học ở
Việt Nam. Trớ trêu thay 25 năm sau tôi cũng tới
Canada nhưng với tư cách là người tỵ
nạn.
Chương tŕnh
lớp đệ nhất B (12 C ngày nay) tức là ban toán
rất nặng. Về toán chúng tôi phải học 7 môn: h́nh
học, h́nh học giải tích, đại số, số học,
lượng giác, cơ học và thiên văn. Khó nhất là
môn số học. Nhưng chúng tôi được cái lợi
là toán có hệ số 4. V́ đă giải hết những bài
tập trong cuốn Lebossé, nên khi thi môn toán thời hạn 3
giờ th́ tôi chỉ mất 1 giờ rưởi th́ đă
làm xong nên nộp bài ra về. Gay nhứt là môn triết gồm
Đạo Đức Học và Luận Ly Học. Tôi c̣n
nhớ đề thi triết năm đó là phán biệt
cảm t́nh và t́nh cảm trong triết học.
ĐỜI SINH VIÊN Ở SÀI G̉N
Nhờ
điểm toán, năm đó tôi lại đậu bằng
tú tài 2 hạng b́nh thứ nữa. Tôi nộp đơn thi
vào ba trường : Đại Học Sư Phạm ở
đại lộ Cộng Hoà ( nay là đường
Nguyễn Văn Cừ), nằm sau trường Đại
Học Khoa Học ( nay là Đại Học Khoa Học
Tự Nhiên) kế bên trường trung học Pétrus Kư ( nay
là trường chuyên Lê Hồng Phong); Trung Tâm Quốc Gia
Kỷ Thuật Phú Thọ (nay là Đại Học Bách Khoa)
trên đại lộ Nguyễn Văn Thoại (nay là
đường Lư Thường Kiệt) gần
trường đua Phú Thọ và Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh (nay là Học Viện Hành Chính Quốc Gia!!!) trên
đường Trần Quốc Toản (nay là
đường 3 tháng 2) gần Việt Nam Quốc Tự.
Tôi đậu
chính thức vào ban toán trường Đại Học
Sư Phạm (nằm trong top ten), đậu dự
khuyết ngành kỷ sư điện trung tâm Kỷ
thuật Phú Thọ và rớt Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh . Muốn vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
phải giỏi hai sinh ngữ Anh, Pháp nhứt là phải làm
bài nghị luận triết học thật hay. Năm
đó đề thi triết học vào trường này là
“Phân tích quan điểm cứu cánh biện minh cho
phương tiện”. Mấy môn đó không phải sở
trường của tôi.
Một thời
gian sau, Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ gọi tôi nhập
học nhưng tôi chọn học Đại Học Sư
Phạm một phần v́ tôi thích môn toán, phần khác v́ vào
đó mỗi tháng tôi lănh 1.500 đồng học bỗng
(trong khi lương tháng của một người lính là
900 đồng).
Ba năm
đại học của tôi trôi qua nhanh chóng và trơn tru,
đến năm 1965 th́ tôi tốt nghiệp.
Trong thời gian
đó có nhiều xáo trộn chính trị. Phong trào Phật
Giáo nổi lên chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm
với lư do chế độ này đàn áp Phật Giáo.
Những cuộc biểu t́nh diễn ra liên tiếp tại
Sài G̣n và sinh viên tham gia trong đó cũng nhiều. Sau cùng,
ngày 1/11/1963 các tướng lănh đứng lên lật
đổ chính quyền và giết chết hai anh em ông
Diệm.
Mấy ông
tướng này xuất thân từ thời c̣n quân
đội Pháp ở Việt Nam nên ăn chơi lịch
lăm. Họ cho phép mở lại vũ trường và cho
tổ chức những dạ vũ ( soirée dansante,
thường gọi là boom). Và cũng thành phần sinh viên
tham gia đông nhứt. Cuối tuần nào cũng có nơi
tổ chức boom, tuần này đại học văn khoa
mở, tuần sau đại học dược khoa
mở, người nào có nhà rộng th́ mở bal de famille
tại nhà. Mỗi lần như vậy ban tổ chức
bán thiệp mời. Cuối tuần nào tôi cũng diện
đồ veste, khi th́ thắt cravate, khi th́ thắt noeud tham
dự không bỏ lỡ dịp nào. Nhưng tiền đâu
đủ dự hết tất cả các boom, tôi và các
bạn khi nào không tiền th́ leo rào vào. Khi vào trong th́
thiếu ǵ đào người khác dẫn vào chúng tôi
mượn đỡ để nhảy.
Những ngày
lễ lớn như Noel, tết Tây, tết Ta, tuổi
trẻ độc thân tôi như các người bạn cùng
lứa đi t́m đối tượng. Đêm Noel năm
nào chúng tôi cũng đến nhà thờ Đức Bà không
phải để đi xem lễ mà để đi t́m
những bóng hồng. Những ngày trước Tết tôi
với những thằng bạn c̣n trong tuổi
“độc thân vui tính”như câu ông bà thường nói
“trẻ vui cảnh chợ, già vui cảnh chùa” thường
đi đến chợ hoa Nguyễn Huệ hay chợ
tết Bến Thành để t́m một chút ǵ ấm ḷng.
Đêm giao
thừa, chúng tôi đi lên Lăng Ông Bà Chiều không phải
để hái lộc mà để chiêm ngưỡng
những nàng xuân đi xin xăm hay xem quẻ cầu duyên..
PHONG TRÀO NHẠC TRẺ Ở SÀI
G̉N
Thường
những ban nhạc Black Caps, The Rocking Stars, The Blue
Stars...phụ trách những đêm dạ vũ lớn.
Nếu không th́ những bal de famille chơi nhạc máy.
Bạn cùng xóm
với tôi là anh Đào Hữu Thọ (kỷ sư thuỷ
lâm, hiện ở Pháp) thường đi boom với tôi.
Ngoài ra, anh Phạm Văn Phước c̣n có tên là
Phước Voi v́ anh cao lớn, to con hay là Phước Xích
Lô v́ nhà anh ở Nha Trang có cho thuê xích lô, là bạn cùng
lớp với tôi ở Đại Học Sư Phạm
cũng thường có mặt thường xuyên ở các
đêm dạ vũ. Khi tôi sang Canada một thời gian th́
nghe tin Phước mất ở Nha Trang.
Thường, bal
được khai mạc bằng một bản passodoble
mà ban nhạc hay đánh bản Espana Cani. Khi nhạc
trổi lên điệu slow th́ piste đầy nghẹt các
cặp nhảy v́ ai cũng có thể nhảy bản này,
chỉ cần ôm nhau và lúc lắc theo điệu nhạc.
Nh́n một cặp nhảy slow người ta có thể
đoán họ là hai kẻ yêu nhau hay hai người xa
lạ. Khi ban nhạc chơi valse hay tango th́ sàn nhảy
thưa người v́ hai điệu đó cần kỷ
thuật cao hơn. Vui nhộn nhứt là điệu twist,
cả sàn nhảy nhấp nhô theo điệu nhạc
giựt.
Năm 1992, sau khi
bảo lănh vợ con từ Việt Nam qua Montréal, vợ
chồng tôi và một đứa em kết nghĩa sang nhà
hàng Long Mỹ ở đường Jean Talon, đổi tên
là nhà hàng Chim Sẻ giống tên cũ của quán nhậu
của vợ chồng tôi trong những năm 1981-1983 ở
quận 4, Sài G̣n.
Một hôm có
một người khách đến nhà hàng chúng tôi gọi
món ăn và tự xưng là Trường Kỳ trong phong
trào nhạc trẻ ở Sài G̣n trước năm 1975. Tôi
đẫ biết tên anh trong thập niên 60 ở Sài G̣n và
cũng biết anh cùng Nam Lộc, Tùng Giang, Elvis
Phương...là những người hoạt động
tích cực cho phong trào nhạc trẻ sau ngày chế độ
của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị lật
đổ. Nhưng đây là lần đầu tôi gặp
mặt anh, một người thấp bé, mang kính cận
thật dày và để râu mép. Trước 75, ở Sài G̣n
Trường Kỳ cộng tác với tuần báo Kịch
Ảnh của Quốc Phong và một sô báo khác, phụ trách
về nhạc trẻ. Khi sang định cư ở
nước ngoài anh cũng tiếp tục viết về âm
nhạc cho báo chí Việt ngữ ở hải ngoại và
đài VOA. Anh c̣n xuất bản một số tuyển
tập của anh về âm nhạc tên là Tuyển Tập
Nghệ Sĩ. Anh mất ở Toronto năm 2009.
RẠP HÁT VÀ PHIM ẢNH Ở SÀI
G̉N
Sài Gón trong
những năm tôi c̣n theo học ở trường
Đại Học Sư Phạm mở cửa rộng răi
với bên ngoài, nhứt là với nước Pháp v́ ngày
xưa, thời Pháp thuộc, miền Nam được
gọi là Cochinchine, trực trị bởi chính phủ Pháp.
Tuy nay miền Nam đẫ được độc
lập hoàn toàn nhưng ảnh hưởng của
nước Pháp vẫn c̣n thấy rơ về mọi mặt.
Về giáo
dục, dù ở miền Nam đă có một chương
tŕnh học bằng tiếng Việt ở bậc tiểu
học và trung học nhưng những gia đ́nh giàu có
vẫn muốn gởi con ḿnh đi học trường
Tây. Do đó số trường dạy theo chương
tŕnh Pháp vẫn tồn tại ở Sài G̣n ; trung học có
Jean Jacques Rousseau, Marie Curie, Saint Paul, Saint-Exupéry , La San Taberd,
Regina Pacis, Regina Mundi, Couvent des Oiseaux, Pasteur, Phan Văn Huê..,
tiểu học có Colette, Aurore. Michelet, Charles De Gaule...Ở
bậc đại học, số giáo sư c̣n thiếu và
thuật ngữ tiếng Việt chưa đầy
đủ (ta chỉ có cuốn Danh Từ Khoa Học
của giáo sư Hoàng Xuân Hăn) nên phải nhờ Pháp chi
viện giáo sư và phải sử dụng tiếng Pháo
trong giáo tŕnh ngay trong bài giảng của giáo sư
người Việt.
Về mặt xă
hội, lối sống của người Sài G̣n phảng
phất lối sống ở kinh đô ánh sang Paris. Ai có
tŕnh độ tiếng Pháp, người lớn đọc
báo Le Monde, Paris Match..., người trẻ đọc Salut
Les Copains...Phim ảnh đa số là của Pháp vói những
tài tử Fernandel., Alain Delon, Jean Marais, Louis De Funès, Brigitte
Bardot, Catherỉne Deneuve, Mylène de Mongeot...Sau này dù phim Mỹ
tràn vào, người ta vẫn thuê phim Mỹ lồng
tiếng Pháp và phụ đề Việt ngữ.
Mức sống
dân Sài G̣n lên cao, tŕnh độ thưởng thức
nghệ thuật thứ bảy cũng theo đó đi lên.
Các rạp chớp bóng (sau này gọi là rạp xi nê) mọc
lên khắp nơi. Những rạp lớn th́ có: Đại
Nam, Casino Sài G̣n, Eden, Kim Châu, Văn Hoa..., những rạp
nhỏ th́ có Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Moderne, Nam Việt,
Long Thuận, Long Phụng, Cao Đồng Hưng...Sau này bà
Ưng Thi, chủ rạp Đại Nam mở thêm rạp
tối tân nhứt ở Việt Nam là rạp Rex ở góc
đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ kế Toà
Đô Chính (Ủy Ban Nhân Dân bây giờ). Rạp Rex có thêm hai
rạp nhỏ bên hông là Mini Rex A và B, bên dưới phía
đường Lê Lợi c̣n có quán café Rex, bên trong cửa kính,
máy lạnh và ghế bành sang trọng. Đây cũng là
rạp hát đầu tiên có trang bị thang cuốn.
Rạp hát nào
cũng có máy lạnh. Rạp hát lớn th́ giá vé cao và hát theo
xuất, khán giả vào xem đúng giờ mở màn và
hết xuất phải ra về để rạp chiếu
xuất khác cho tốp khán giả sau. Rạp hát lớn th́
chiếu phim mới, c̣n rạp hát nhỏ th́ chiếu phim
cũ và chiếu thường trực, nghĩa là khán
giả vào xem lúc nào cũng được và muốn khi nào
ra về th́ tùy ư. Có nhiều người tránh nóng buổi
trưa vào rạp xi nê thường trực để
ngủ trưa.
Hai rạp
Vĩnh Lợi và Lê Lợi được giới học
sinh và sinh viên Sài G̣n chiếu cố nhứt. Rạp Vĩnh
Lợi ở kế nhà thương Sài G̣n và nhà hàng Thanh
Bạch. Tôi có hai kỷ niệm đáng nhớ về
rạp Vĩnh Lợi. Một hôm tôi vào rạp Vĩnh
Lợi để xem một phim cũ mà hay. Khi tôi đang
xem phim th́ có hai cô gái vào ngồi chung một ghế trống
bên cạnh tôi, Hai cô chắc là nữ sinh trường Pháp
nên tôi nghe họ trao đổi với nhau bằng tiếng
Pháp. Để tỏ ra ḿnh galant với hai người
đẹp đồng thời để chứng minh
biết tiếng Pháp, tôi cố gắng xổ ra câu: “J'ai le
plaisir de vous céder ma place” (Tôi rất hân hạnh nhường
chỗ cho các cô), rồi lật đật đứng lên
đi t́m chỗ ngồi khác chỉ kịp nghe tiếng nói
merci của hai cô. Một lần khác, Khi tôi đang ngồi
trong rạp Vĩnh Lợi say sưa theo dơi phim trên màn
ảnh, chợt một bàn tay ai đó đặt lên đùi
tôi, Tôi nh́n lên thấy một anh chàng ngội ghế
cạnh tôi đang tḥ tay qua. Tôi hoảng hốt đứng
dậy bỏ đi chỗ khác ngồi. Rạp Vĩnh
Lợi nổi tiếng có nhiều khán giả bê đê.
C̣n ở rạp
Lê lợi ở trên đường Lê Thánh Tôn, gần
chợ Bến Thành, tôi nhớ có một lần đi xem
phim Dracula do tài tử Christopher Lee đóng, Đang trong
cảnh một thiếu nữ nằm ngủ trong pḥng, màn
gió cửa sổ bay phất phới và bá tước Dracila
hiện ra ở khung cửa sổ nở nụ
cười nhe hai cái nanh trong miệng đỏ màu máu, th́ trong
rạp có một tiếng rú lên. Các nữ khan giả trong
rạp đồng loạt la lên sợ hải. Tôi biết
anh chàng vừa rú lên là một học sinh ở một
trường tây thường quậy phá các cô nữ khán
giả yếu bóng vía mà thích xem phim ma.
Ai mới quen
đào th́ thường dẫn váo Mini Rex A hay B, ghế
ngồi sang trọng thật êm, ngay cả toilet cũng
sạch bóng và lúc nào cũng có một bà xẩm ngồi ngoài
cửa mà người khán giả lịch sự nào cúng không
quên dúi vào tay bà một ít tiền lẻ. C̣n ai có đào
ruột th́ dẫn lên lầu 2 rạp Eden, kín đáo, ấm
cúng để tha hồ tâm sự.
Trong thời
kỳ này, Sài G̣n có 3 tờ tuần báo chuyên về âm
nhạc, thoại kịch và điện ảnh là Kịch
Ảnh, Điện Ảnh và Màn Ảnh không kể
những trang đặc biệt nói về các bộ môn
đó trong các tờ nhật báo. Phim nào mới tŕnh chiếu
được kư giả điện ảnh đi xem
trước và tường thuật lại một cách chi
tiết cốt truyện. Những phim kinh điển
của nghệ thuật thứ bảy như Cuốn Theo
Chiều Gió, Cleopatre, Ben Hur, Le Jour Le Plus Long, Le Pont De La
Rivière Kwai, Doctor Zivago, The Godfather...với nhữnh tên
tuổi Clark Gable, Vivien Leigh, Liz Taylor, Richard Burton, Charlton
Heston, Henry Fonda, William Holden, Omar Sharif, Robert De Niro…và nhiều
nhiều nữa không bao giờ mờ nhạt trong kư ức
người Sài G̣n trước năm 1975.
NHỮNG BƯỚC LANG THANG TRÊN
ĐƯỜNG PHỐ SÀI G̉N
Trong 4 năm
1965-1969, dù đi dạy ở Trà Vinh cách Sài G̣n 200 cây số
và gần trọn ngày ngồi xe đ̣ nhưng trong thời
gian đầu, cuối tuần nào tôi cũng đáp xe
đ̣ vế Sài G̣n. Dù mất hết hai ngày đi và về
và chỉ có ngày thứ bảy trọn vẹn ở Sài G̣n,
nhưng tôi vẫn hài ḷng về quyết định này.
Vê tới Sài G̣n,
nếu c̣n sớm tôi ghé ngay đại lộ Lê Lợi vào
một quán nước như Phạm Thị Trước
hay quán kem như Mai Hương (nay là quán kem Bạch Đằng
ở góc Lê Lợi và Pasteur) hoặc Pôle Nord (ở mặt
tiền thương xá Tax) ngồi để ngắm các giai
nhân của Ḥn Ngọc Viễn Đông đang xuôi
ngược trên đại lộ sầm uất nhứt
trong thành phố Sài G̣n như đại lộ Champs D’Élysée
của Paris hay đường Sainte- Catherine của Montréal.
Chỉ cần ngồi ở đây, người ta có
thể khám phá bạn của ḿnh có đào hay chưa v́ ai có
đào cũng dẫn đi défiler ngang đây.
Trong khoảng
thời gian này, nếu nhằm lúc đang quen bạn gái th́
cũng như mọi người, ngày thứ bảy tôi
sẽ dành trọn cho người đẹp: dẫn nàng đi
rước đèn ở phố Bonard (phố Lê Lợi),
rồi đi xi-nê và cuối cùng là đi ăn kem hay ăn
nhà hàng theo yêu cầu của giai nhân; c̣n nhằm lúc “mồ
côi đào” th́ đành ngồi uống nước ngắm
thiên hạ cho đỡ buồn.
V́ thường
ngồi ở các quán trên đại lộ Lê Lợi nên tôi
quen với một vài anh chàng “mồ côi đào” làm những
ngành nghề khác nhau. Ngồi ngắm thiên hạ chán, chúng
tôi thả bộ đến thương xá Tam Đa c̣n
gọi là Crystal Palace (Trung Tâm Thương Mại Quốc
Tế bị cháy năm 2002) để chiêm ngưỡng những
giai nhân bán các gian hàng mỹ phẩm, hay băng nhạc
ở đó. Đôi khi chúng tôi đến nhà hàng La Pagode hay
quán kem Brodard ở đường Tự Do (Đồng
Khởi bây giờ) để thay đổi không gian.
Nếu muốn nghe nhạc có h́nh (thời đó chưa phát
minh vidéo) th́ chúng tôi vào Saigon Departo cũng ở
đường Tự Do, nơi có đặt một máy
scopitone mà người ta có thể chọn một bản
nhạc trên bàn phím và mua jeton bỏ vào cái khe để nghe
và thấy ca sĩ hát bản đó.Tôi thích nghe bản
nhạc phim Le Jour Le Plus Long do ca sĩ Dalida mặc quân
phục hát trong máy đó.
Cuộc vui nào
cũng phải tàn. Sáng chủ nhật tôi lên xe đ̣
trở xuống Trà Vinh. Những đêm ở lại Trà Vinh,
sau khi soạn bài vỡ để ngày hôm sau dạy và
trước khi đi ngủ tôi mở máy hát đĩa
để nghe nhạc. Những tiếng hát ngọt ngào
của Phương Dung, Hoàng Oanh..trên những đĩa
nhựa 45 ṿng làm thấm thía nỗi buồn kẻ sống
xa nhà nhất là xa thành phố thân yêu Sài G̣n, nơi tôi
sống từ nhỏ. Đặc biệt bản Nhớ
Thành Đô của Hoàng Thi Thơ diễn tả đúng tâm
trạng của tôi lúc đó:
“Tôi xa đô thành
một đêm trăng mông mênh
“Tuy ra đi
rồi mà vẫn nhớ, vẫn thương
“H́nh bóng ấy,
người em thơ đang từng giờ đợi
chờ..”
Bốn năm
đợi chờ cũng chóng qua. Năm 1969, tôi
được đổi về dạy ở
trường Ngô Quyền, Biên Ḥa chỉ cách Sài G̣n có 30 km.
Ban giám đốc nhà trường thông cảm cho hoàn cảnh
những thầy cô từ Sài G̣n lên dạy ở Biên Ḥa nên
sắp xếp cho tôi mỗi tuần dạy từ sang
thứ hai đến chiều thứ ba là đủ
giờ bắt buộc. Tôi chỉ ở lại Biên Ḥa
đêm thứ hai, những ngày c̣n lại tôi ở Sài G̣n.
TRƯỜNG TƯ SÀI G̉N
Sau hiệp
định Genève, hơn 1 triệu người từ
miền Bắc di cư vào Nam làm xă hội ở đây có
nhiều thay đổi.
Về mặt
giáo dục, một số trường học trung học
nổi tiếng ở Hà Nội như Chu Văn An ( hậu
thân của trường Bưởi), Nguyễn Trăi...và
một số phân khoa đại học ở Hà Nội
cũng theo làn sóng người di cư chuyển vào Sài G̣n.
V́ chưa chuẩn bị kịp cơ sở nên lúc
đầu trường Chu Văn An , Đại Học
Khoa Học và Đại Học Sư Phạm phải
mượn một phần cơ sở rộng lớn
của trường trung học Pétrus Kư để làm
nơi giảng dạy. Sau này, trường Chu Văn An
mới có trường sở riêng ở quận 5, Chợ
Lớn. Trường Nguyễn Trăi cũng tạm trú ở
trường tiểu học Lê Văn Duyệt ở
đường Phan Đ́nh Phùng (nay là đường
Nguyễn Đ́nh Chiểu, quận 3),măi đến giữa
thập niên 60 mới dời về quận 4.
Theo chân các
trường học, các giáo sư và học sinh, sinh viên
miền Bắc vào Sài G̣n làm đông đảo hơn
lực lượng người dạy và học ở
đây.
Số
lượng các trường cấp học phổ thông
(tiểu học và trung học) tăng lên. Nhưng số
trường công lập không đủ đáp ứng nhu
cầu của số học sinh quá đông nên các
trường tư mọc ra như nấm. Do đó,
việc mở trường tư ban đầu do các nhà
giáo có điều kiện tài chánh rộng rải nghĩ ra
như các giáo sư Nguyễn Văn Khuê, Vương Gia
Cần, Nguyễn Văn Phú (trường Hưng
Đạo ở đường Cống Quỳnh),
Trần Bích Lan (trường Văn Học ở
đường Phan Thanh Giản)...Nhưng về sau,
trường tư cũng là một h́nh thức kinh doanh
của những nhà tư sản. Họ chỉ cần
sở hữu hay thuê một căn nhà lớn nhiều pḥng
hay nhiều tầng để làm trường rồi
mướn một người có bằng cử nhân làm
hiệu trưởng để xin giấy phép của
Bộ Giáo Dục mở trường trung học tư
thục. Công việc c̣n lại là quảng cáo và mời giáo
sư giảng dạy. Người ta thuê người
vẻ các banderole giăng trên cao ngang đường hay
những bảng thiếc đặt dọc
đường đề tên trường, ngày khai
giảng, danh sách giáo sư...Người ở Sài G̣n
trước 1975 ai cũng biết những bảng
quảng cáo các lớp luyện thi toán lư hoá của giáo
sư Huỳnh Ngọc Tiếu được đặt
đầy rẫy trên các đường phố. Sau 1975,
tôi nghe nói bên Cali, giáo sư Tiếu cũng mở các lớp
dạy thêm cho học sinh.
Phải nói
thật ḷng, trong thành phần giáo chức ngày xưa, đa
phần là người Bắc di cư. Họ là thành
phần trí thức ưu tú ở Hà Nội vào miền Nam
để có môi trường sinh hoạt thích hợp
hơn. Nói rộng hơn, sau năm 1954, nền văn hoá
miền Nam bùng phát với sự tham gia của những
người đến từ miền Bắc, đặc
biệt là từ Hà Nội. Trong mọi lănh vực văn
hoá: văn chương, âm nhạc, điện ảnh, báo
chí...và giáo dục người Bắc di cư cũng
chiếm số đông. Trong suốt thời gian học
trung học và đại học của tôi, các thầy tôi
đa số là người miền Bắc di cư.
Như đă nói
trên, tuy dạy trường công ở Biên Hoà nhưng tôi
chỉ ở đó có hai ngày đầu tuần. Những
ngày c̣n lại trong tuần, ở Sài G̣n tôi được bạn
bè giới thiệu vào dạy một số trường
tư. Tôi dạy trường Tân Văn ở
đường Trần Quư Cáp (Vơ Văn Tần bây giờ)
gần chợ Đũi và Tân Việt ở đường
Yên Đổ gần công trường Dân Chủ mà giám
đốc là anh Nguyễn Lung. Anh Lung cũng là giáo sư
toán, trước mở các cours luyện thi, sau mướn
hiệu trưởng để mở hai trường
đó. Nghe nói người đứng tên hiệu
trưởng trường Tân Văn là luật sư Lê
Đại Toàn, anh của tài tử Lê Quỳnh. Thỉnh
thoảng vào buổi sáng, anh Lung thường lấy xe
Peugeot 403 chở chúng tôi đi ăn cơm tấm Trần
Quư Cáp. Nguyễn Lung có một người vợ thật
đẹp là bạn của nữ minh tinh Thẩm Thúy
Hằng. Sau này sau khi định cư ở Pháp, anh Lung và
vợ đă thôi nhau.
Trường Tân
Văn có cơ sở là một ngôi biệt thự, cạnh
trường Anh văn Nguyễn Ngọc Linh, có
tường bao bọc chung quanh. Trong sân trường có một
cây cổ thụ mà tàng cây che bóng mát cho phía dưới
suốt ngày.
Cả hai
trường Tân Văn và Tân Viêt đều có mở
những lớp học ban đêm cho người lớn
học để thi Tú Tài, đa số học viên là công
chức và quân nhân. Sau này tôi thuê pḥng học ở
trường Thượng Hiền của thầy tư
Kiệt để mở các lớp luyện thi Tú Tài.
Trong những
năm cuối cùng trước ngày 30/4/75, tôi có dạy các
trường tư khác như Đức Chính ở
đường Bùi Viện, Saint Thomas ở nhà thờ Ba
Chuông, Trương Minh Giảng, một trường ở
gần chợ Bà Chiểu mà tôi quên tên và lớp đêm
ở trường nữ trung học đô thị Cô Giang
(trường Thälmann bây giờ) trên đường
Trần Hưng Đạo. Chính ở đây tôi đă
gặp người bạn đời của tôi.
CÁC PH̉NG TRÀ SÀI G̉N
“Sài G̣n ta gởi
cho em
Quán cơm Anh
Vũ, phố đèn Tự Do
Nhớ em! Ôi,
thuở học tṛ
Này
đường Nguyễn Trăi, con đ̣ Thủ Thiêm”
(Khuyết danh)
Như đă nói
ở phần trước, theo làn sóng di cư từ
miền Bắc vào Nam, những văn nhân, nghệ sĩ
của Hà Thành đă t́m đến Sài G̣n, nơi đất
lành chim đậu.
Nhạc sĩ Anh
Bằng đă cho thấy điều đó qua câu ca “Tôi xa Hà
Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu” trong
bài hát Nỗi Ḷng Người Đi. Số lượng
đông đảo người làm văn nghệ
đến từ miền Bắc làm cho xă hội miền
Nam khởi sắc hơn và nhất là thành phố Sài G̣n càng
xứng đáng với danh xưng Ḥn Ngọc Viễn
Đông.
Những tác phẩm
văn chương, những nhạc phẩm , những
cuốn phim và những tuồng cải lương kinh
điển của Sài G̣n trước 1975 vẫn sống
măi trong tâm hồn người Sài G̣n dù cho vật
đổi sao dời. Đây là thời gian rực rỡ
nhứt của văn học, nghệ thuật Sài G̣n.
Thơ Nguyên Sa “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, áo nàng xanh anh
mến lá sân trường”, nhạc Phạm Duy “Ta ngắt
đi một cùm hoa thạch thảo, em nhớ cho mùa thu
đă chết rồi”, minh tinh Thẩm Thuư Hằng, cô
đào Thanh Nga.là những biểu tượng không phai
mờ theo thời gian của thành phố Sài G̣n.
Ánh đèn màu
của Sài G̣n cũng không bao giờ tắt trong đêm
cả trong thời gian chiến tranh leo thang khốc
liệt. Vũ trường có đóng cửa th́
người ta thay thế bằng pḥng trà.
Một trong
những pḥng trà đầu tiên ở Sài G̣n là Anh Vũ
ở số 43 đường Bùi Viện (phố Tây bây
giờ). Ở đó, ban ngày là quán cơm b́nh dân cho học
sinh, sinh viên và người lao động, ban đêm là pḥng
trà ca nhạc. Pḥng trà Anh Vũ mở cửa năm 1960 và
tồn tại chỉ có vài năm th́ bị đóng cửa
v́ t́nh h́nh an ninh, nhưng đó là bệ phóng của
những ca sĩ tên tuổi sau này của Sài G̣n: Thanh Thuư,
Bạch Yến, Minh Hiếu, Lệ Thanh, Duy Khánh, Việt
Ấn, Cao Thái, Duy Trác...
Cũng trong
thời gian đó, một vụ án nổi tiếng xảy
ra ở vũ trường Kim Sơn ở đường
Tự Do: vũ nữ Cẩm Nhung bị vợ trung tá Thức
cho người tạt acide v́ ghen. Từ một cô vũ
nữ xinh đẹp, Cẩm Nhung trở thành một
người có một bộ mặt bị huỷ hoại
tàn khốc. Trước đó ở Sài G̣n cũng có một
vụ án v́ ghen tương khác làm tốn bao nhiêu giấy
mực trên các trang báo: vụ án cô Quờn đốt
chồng...
Theo ḍng thời
gian, thời chế độ Tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm vũ trường bị đóng cửa th́ sau khi
ông bị lật đổ, các ông tướng cho mở
lại vũ trường nhưng đến năm 1968,
sau biến cố tết Mậu Thân , vũ trường
lại bị đóng cửa và phải chuyển sang h́nh
thức pḥng trà,
Chúng ta phải
kể tên những pḥng trà nổi tiếng thời kỳ
này là: Queen Bee với ban nhạc Shot Gun của Ngọc Chánh
ở building Eden, Đêm Màu Hồng với ban hợp ca
Thăng Long ở đại lộ Nguyễn Huệ,
Tự Do với các ca sĩ Khánh Ly, Lệ Thu ở
đường Tự Do, Maxim’s ở gần khách sạn
Majestic và Ritz của Jo Marcel ở đại lộ Trần
Hưng Dạo.
Tôi thường
đến pḥng trà Queen Bee nghe nhạc v́ ở đây
chỗ ngồi thoải mái và âm thanh rất hay.
ĂN UỐNG Ở SÀI G̉N
Một nghề
chuyên nghiệp của người Bắc di cư là
nấu phở. Người miền Nam trước đó
chỉ biết đến hủ tíu: hủ tíu của
người Hoa, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Vĩnh Long
hay hủ tíu Nam Vang…Sau năm 1954, cùng với sự hiện
diện của những người đến từ
miền Bắc, những tiệm phở của họ
đem đến cho Sài G̣n một hương vị
mới: phở Tàu Bay ở đường Lư Thái Tổ,
Phở Ḥa ở đương Pasteur, Phở Bắc
đường Vơ Tánh (nay là đường Nguyễn Trăi),
phở Cao Vân đường Mạc Đĩnh Chi…Sau này
theo chân người Việt định cư ở nước
ngoài những thương hiệu nói trên cũng
được thấy ở các thành phố lớn của
Mỹ, Canada, Pháp, Úc
Nhắc
đến ẩm thực Sài G̣n, nếu muốn ăn
phở ngon th́ phải đến tiệm của
người miền Bắc, muốn ăn hủ tíu hay
hủ tíu ḿ th́ phải vào tiệm nước người
Tàu. Người Hoa ở Hải Pḥng di cư vào Sài G̣n mang
theo món ḿ La Cai và ḿ vịt tiềm ở tiệm Hải Kư
Ḿ Gia đường Nguyễn Tri Phương
(đường Lacaze thời Pháp thuộc v́ vậy
mới có từ ḿ La Cai). Nhưng người Sài G̣n vẫn
không quên tiệm hủ tiếu Thanh Xuân ở
đường Tôn Tất Thiệp gần chùa Chà Và.
Là một
người từng lang thang ở phố Lê Lợi vào
cuối tuần tôi không quên được hai món ăn sáng
khoái khẩu ở nhà hàng Thanh Bạch kế nhà
thương Sài G̣n: pâté chaud và bánh ḿ ḅ kho hay bún suông ở
nhà hàng Thanh Thế đường Nguyễn Trung Trực.
Sau này không c̣n nhà hàng Thanh Thế th́ tôi ăn bún suông chỗ
sạp cô Mai trong chợ Sài G̣n.
C̣n nhiều món
ăn ngon khác mà người Sài G̣n không quên như bánh ḿ
Bưu Điện, bánh ḿ Ṭa Đô Chánh, bánh ḿ Nguyễn
Ngọ (trên đại lộ Trần Hưng Đạo),
bánh xèo Đinh Công Tráng, bánh cuốn Tây Hồ ở Đa
Kao, cháo vịt Thanh Đa, ḅ bảy món Ánh Hồng ở Phú
Nhuận, bánh bao ông Cả Cần ở ngả sáu Chợ
Lớn...
TRUYỀN THANH VÀ TRUYỀN H̀NH
Ở SÀI G̉N
Năm 1939, chính
phủ Pháp cho thành lập đài phát thanh Radio Sagon như là
tiếng nói của nước Pháp tại Viễn Đông
phục vụ cho nước Pháp trong thời kỳ thế
chiến thứ 2 dưới sự điều khiển
của ông Jacques LeBourgeois.
Ngày 9/3/1945 đài
này im tiếng sau khi Nhật đảo chánh Pháp và đài này
chỉ hoạt động trở lại tháng 12 năm 1945
sau khi Pháp theo chân quân đội Đồng Minh trở
lại Sài G̣n. Đến năm 1950 , đài này đổi
tên là đài phát thanh Pháp Á (Radio France-Asie). Ngày 27/2/1956 đài
Pháp Á được giao lại cho chánh quyên của ông Ngô
Đ́nh Diệm và từ dó người ta có đài phát thanh
Sài G̣n.
Cho đến
năm 1975, tôi thích nhất là giọng nói của hai
xướng ngôn viên Lệ Hồng và Văn Thiệt trên
đài Sài G̣n. Đài Pháp Á và đài Sài G̣n đối với
các nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ, nghệ sĩ
cải lương...là một môi trường giúp họ
phát triển tài năng v́ đă mang tiếng nhạc,
lời ca, tiếng nói của họ đến người
dân miền Nam.
Tôi c̣n nhớ
ngoài những mục tin tức, b́nh luận, ca nhạc
kịch, ngâm thơ...có những chương tŕnh
đặc biệt mà khi đến giờ phát thanh ai
cũng mong chờ. Chiều thứ ba dù đang ở
sở làm hay ở nhà người ta mở radio để
nghe xổ số và bài hát mở đầu cho buổi
xổ số do nghệ sĩ Trần Văn Trạch tŕnh
bày mà tới nay người dân cố cựu của Sài G̣n
vẫn c̣n nhớ những câu như:
“Kiến thiết
quốc gia
Giúp đồng
bào ta
Xây đắp
muôn người
Được nên
cửa nhà”
Tối thứ
bảy, người mê cải lương được
nghe trực tiếp truyền thanh một tuồng mới
của một đoàn cải lương nổi tiếng của
Sài G̣n. Khi nào có một trận đá banh quốc tế th́
người ghiền môn túc cầu sẽ được kư
giả Huyền Vũ tường thuật trục tiêp qua
làn sóng điện. Lối diễn tả trận
đấu của Huyền Vũ rất sôi nổi đến
nay chưa ai có thể qua được. Tôi c̣n nhớ câu
nói để diễn tả tỷ số 0-0 của hai
hội banh, Huyền Vũ thường sử dụng
câu:’Màn lưới đôi bên vẫn c̣n trinh bạch”. Lúc c̣n
nhỏ, nhà tôi không có radio, tôi phải ngối ngoài sân nhà hàng
xóm với đám con nít để chăm chú nghe
tường thuật trận đá banh. Nhờ Huyền Vũ
tôi quen tên những hội banh như Ngôi Sao Gia Định,
AJS (sau là hội Cảnh Sát Quốc Gia), Quan Thuế,
Tổng Tham Mưu…và những cầu thủ: Kane, Don, Myo,
Tam Lang, Rạng, Ngôn, Tư…Thời đó, nền bóng tṛn
của Hồng Kông là nổi trội nhứt ở Á Châu
nhứt là đội Nam Hoa với cầu vương Lư
Huệ Đường, Hội banh Việt Nam
thường thua các hội Hồng Kông mỗi khi chạm
trán với họ. Nhưng có lần hội tuyển
Việt Nam phá lệ thắng hội Nam Hoa. Hôm đó dân Sài
G̣n mừng vui như ngày hội, nhưng người ta
không xuống đường chạy xe gắn máy ồn ào
như những “fan bóng đá” ngày nay (đi băo!)
Ngày 7./2/1966,
buổi phát h́nh đầu tiên của đài truyền h́nh
Sài Gon lúc 19 gị tối do một phi cơ C121 của Mỹ
bay trên không phận Sài G̣n phát ra. Về sau, ngày 25 tháng 10
năm 1966, trụ sở trên mặt đất
đươc thiết lập tại số 9
đường Hồng Thập Tự. Lúc đầu
truyền h́nh Sài G̣n chỉ phát h́nh một giờ mỗi
ngày, về sau lên tới 6 giờ một ngày và nhiều
hơn nếu là cuối tuần. Những năm sau đó
người ta mở thêm các đài truyền h́nh Cần
Thơ, Huế, Quy Nhơn và Nha Trang.
Đài Sài G̣n phát
trên băng tần số 9, Cần thơ tần số 7 và
đài Mỹ AFVN (Armed Forces Vietnam Network) tần số 11.
Những chương tŕnh của đài Mỹ lấy
từ chính quốc rất phong phú. Ba tôi đêm nào cũng
thức khuya để xem đấu vật (wrestling). Tôi
thích xem những phim cao bồi như Gunsmoke, Bonansa, Wild Wild
West…Đứa em kế tôi thích phim chiến tranh như
Combat hay Assault. Những đứa em nhỏ hơn th́ xem
phim hoạt họa như: Peanut, Flinstone…hay phiêu lưu
Batman. Lại c̣n phim khoa học viễn tưởng như
Lost in space, Startreck (người ta thường gọi là
phim Lỗ Tai Lừa) hay gián điệp như Mission
Impossible. Phim ma diễu th́ có Adam Family..Tuy không hiểu
hết nội dung v́ phim nói tiếng Anh nhưng mọi
người đều thích thú v́ không cần đến
rạp xi nê mà vẫn coi được phim.
Tuy nhiên không
phải nhà nào cũng có TV. Giá một máy truyền h́nh lúc
đó bằng mấy tháng lương b́nh thường.
Nếu nhà không có TV th́ người ta xem ké bên nhà hàng xóm. Tôi
nhớ lúc c̣n dạy ở Trà Vinh, đám thầy giáo chúng
tôi tối nào cũng đến nhà bác sáu Chẩn, giám
thị trường trung học Vĩnh B́nh để xem
TV. Sau này trở về Sài G̣n tôi mua cho gia đ́nh một máy
truyền h́nh hiệu Denon 16 inch. Màn ảnh nằm trong
một cái thùng gỗ có cửa. Sau năm 1975, trong thời
gian khó khăn, nhà không có TV mỗi lần có tranh cúp Mondial,
tôi phải sang nhà người học tṛ bên cạnh xem ké
trận đấu.
CÁC ĐẠI NHẠC HỘI
Ở SÀI G̉N
Miền Nam trong
khoảng 1956-1960 rất là yên b́nh. Năm 1957, nhân lễ
Quốc Khánh chính quyền VNCH có tổ chức một
hội chợ bên Thị Nghè. Ngỏ đi từ sở thú
qua Thị Nghè có một cây cầu đúc, đêm khai mạc
hội chợ người ta chen lấn, xô đẩy nhau
trên cầu để vào hội chợ khiến 17
người chết và nhiều người bị
thương v́ dẫm đạp nhau và rơi xuống sông.
Hội chợ vẫn tiếp tục mở cửa và
mấy hôm sau má tôi dẫn anh em tôi đi chơi hội
chợ th́ thấy trên cầu chỉ c̣n lưa thưa
người vào hội chợ, có lẽ người ta e
sợ tai nan có thể xảy ra nữa. Sau khi hội
chợ chấm dứt th́ khu hội chợ biến thành
giải trí trường Thị Nghè, nơi có nhà hàng, tṛ
chơi và tŕnh diễn ca cỗ do nghệ sĩ Lệ
Liễu tổ chức
Sau đó dù
chiến tranh leo thang, tôi vẫn sống thời tuổi
trẻ của ḿnh trong hạnh phúc và hy vọng tương
lai. Thời kỳ sinh viên, ngoài việc học tôi cùng các
bạn đắm ḿnh trong những cuộc vui chơi.
Những ngày cuối tuần ban đêm chúng tôi đi bal, ban
ngày đi dạo phố Bô Na (Bonard). Đôi khi chúng tôi đi
xem đại nhạc hội.
Thời đó,
đại nhạc hội là một chướng tŕnh
tạp kỷ bao gồm những tiết mục ca nhạc
kịch, ảo thuật, xiếc, cải lương… Ban đầu
ông bầu tổ chức là quái kiệt Trần Văn
Trạch. Sau này là Duy Ngọc tại rạp Đại Nam
và Tùng Lâm tại rạp Olympic.
Ông bầu Duy
Ngọc, sau năm 1975 vẫn hoạt động trong làng
ca nhạc đến khi mất năm 2016. Đại
nhạc hội của ông đă quy tụ những nghệ
sĩ tên tuổi hàng đầu nhiều thế hệ
như tam ca AVT (Lữ Liên, Tuấn Đăng, Vân Sơn);
các nghệ sĩ cải lương Thành Được Út
Bạch Lan, Thanh Nga, Bạch Tuyết, Hùng Cường; các
ngôi sao ca nhạc Giao Linh, Thanh Tuyền, Mai Lệ Huyền…;
các nghệ sĩ kịch: Kim Cương, Thẩm Thúy
Hằng, Túy Hồng. Người làm MC cho các buổi
đại nhạc hội, thời đó gọi là hoạt
náo viên nổi tiếng là Trần Văn Trạch, Ngọc
Phu, Tùng Lậm..
Người ta
c̣n nhớ thời đó có những ḷ đào tạo ca
sĩ mà về sau trở nên nổi tiếng trên ṿm trời
ca nhạc. Ḷ Nguyễn Đức có một lô ca sĩ
họ Phương gồm Phương Hồng Loan,
Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh,
Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc
(Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh< Thanh Lan
và có cả nghệ sĩ hài như Thanh Hoài, Trần Tỷ.
Ḷ Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang
Kim Yến rồi Chế Linh,
Giang Tử.
Lớp nhạc Bảo Thu có Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan;
Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi; Nguyễn
Văn Đông đào tạo Giao Linh, Thanh Tuyền …
BÁO CHÍ SÀI G̉N
Miền Nam đi
tiên phong trong lănh vực báo chí. Tất cả những
tờ báo đầu tiên của Việt Nam đều
xuất xứ từ đây. Tờ Gia Định Báo ra
đời ở Sài G̣n năm 1865 chỉ 3 năm sau khi Pháp
chiếm 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ (1862).
Có thể nói,
trước 1975 Sài G̣n là nơi mà báo chí phát triển và phong
phú. Trừ một vài tờ báo là cơ quan thông tin và tuyên
truyền của chánh quyền và quân đội, đa phần
báo chí là của tư nhân
Những
người làm báo kỳ cựu ở Sài G̣n trước
1975 phải kể như các ông Nam Đ́nh (Nguyễn Kỳ
Nam) với tờ Thần Chung, Trần Tấn Quốc
với tờ Tiếng Dội, Đinh Văn Khai với
tờ Tiếng Chuông, bà Bút Trà với tờ Sài G̣n Mới...
Người Sài
G̣n, không chỉ là người trí thức mà kể cả
những người lao động đều có thói quen
đọc báo mà người b́nh dân gọi là xem “nhựt
tŕnh”. H́nh ảnh một ông công chức đeo kính trắng
ngồi tréo chân trong một quán nước vừa ăn
sáng, uống cà phê vừa đọc báo và một anh xích lô
ngồi trên nệm xe xem nhựt tŕnh trong khi chờ
đợi khách là những ǵ người ta bắt gặp
đây đó trong thành phố Sài G̣n.
Báo chí thời
đó cung cấp đủ tiết mục khác nhau cho
người đọc tuỳ theo sở thích của
họ. Tin tức cho người theo dỏi thời
cuộc, thể thao cho ai mê đá banh, bóng bàn, quần
vợt, đua xe đạp..., kịch trường cho
người thích cải lương, điện ảnh cho
ai ham xem phim, nhứt là tiểu thuyết hay truyện dài
đăng từng ngày (feuilleton) cho người mê
đọc truyện.
Các kư giả
được phân chía theo chuyên môn của họ: Kiên Giang,
Nguyễn Phương, Trần Tấn Quốc ( cha
đẻ giải Thanh Tâm của ngành cải lương)
phụ trách trang kịch trường, Thiệu Vơ, Huyền
Vũ trang thể thao, Quốc Phong trang điện
ảnh...Những danh xưng của các nghệ sĩ, ca
sĩ, vận động viên thể thao được các
kư giả đặt tên như “vua xàng xê” Minh Chí, “cải
lương chi bảo” Bạch Tuyết, “TV chi bảo”
Phương Hồng Quế, “nhạn trắng G̣ Công”
Phương Dung, “nữ hoàng sầu muộn” Giao Linh,
“phượng hoàng” Lê Thành Các, thủ môn “lưỡng
thủ vạn năng” Phạm Văn Rạng...
Nhưng
thường một tờ báo ăn khách nhờ những
tiểu thuyết, truyện dài từng kỳ. Tác giả
đầu tiên viết tiểu thuyết feuilleton trên báo là
Phú Đức với truyện trinh thám rất nổi
tiếng Châu Về Hiệp Phố đăng nhiều
kỳ trên báo Trung Lập và Công Luận từ năm 1926,
về sau được đăng lại trên báo Thần
Chung và Đuốc Nhà Nam trong những năm 60, 70. Hồi
c̣n nhỏ tôi mê các nhân vật Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ
Thuỷ, Lục Tặc trong bộ truyện này.
Những tác
giả sau này như bà Tùng Long, Dương Hà, Ngọc Linh,
Hoài Điệp Tử...cũng rất ăn khách với
nhứng tiểu thuyết t́nh cảm xă hội đăng
hàng ngày trên các nhựt báo ở Sài G̣n.
Với làn sóng di
cư của đồng bào miền Bắc vào Nam, làng báo
Sài G̣n được tăng cường những nhân
tố mới làm phong phú thêm món ăn hàng ngày của dân Sài
G̣n. Nhiều tờ báo mới do người Bắc di
cư chủ trương như Tự Do mà chủ
nhiệm là Phạm Việt Tuyền, Chính Luận của
bác sĩ Đặng Văn Sung và đ́nh đám nhứt là
tờ báo Sống của Chu Tử sau khi bị đ́nh
bản trở thành là Sóng Thần. Chu Tử là tác giả
nhiều tiểu thuyết t́nh cảm ăn khách với
tuổi trẻ Sài G̣n lúc đó nhứt là cuốn Yêu mô
tả chuyện t́nh của cháu Diễm và chú Đạt,
bạn của cha Diễm. Chu Tử tử nạn ngày
30/4/75 khi t́m đường rời Việt Nam.
Phải kể
thêm những tiểu thuyết đăng báo ăn khách khác
vào thời kỳ nửa đầu thập niên 70 của
Lê Xuyên với Chú Tư Cầu, Duyên Anh với Điệu
Ru Nước Mắt, Nguyễn Thuỵ Long với Loan
Mắt Nhung, Trần Đức Lai với Cậu Chó...
Một hiện
tượng nổi bật trong làng báo Sài G̣n của
những năm 60, 70 là phong trào xem truyện vơ hiệp
của Kim Dung. Các báo tranh nhau đặt mua báo Hồng Kông
sớm nhứt để có bài mới của truyên Kim Dung
đăng trên báo Hồng Kông đem dịch và đăng
báo của ḿnh hầu ra trước báo khác để câu
đọc giả. Những dịch giả Từ Khánh
Phụng, Hàn Giang Nhạn nhờ cơn sốt truyện Kim
Dung mà kiếm bộn bạc.
SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG
Ở SÀI G̉N
Văn
chương miền Nam trước 1975 xét về khía canh
văn phong có thể chia làm hai trường phái: văn
chương trau chuốt của các tác giả gốc
miền Trung và miền Bắc, văn chương miệt vườn
của các nhà văn gốc miền Nam.
Trước 1954,
nghĩa là trước làn sóng di cư của người
miền Bắc vào Nam sau hiệp đinh Genève chia đôi
đất nước, người ta đọc những
tác phẩm của Phú Đức về trinh thám, Nam Đ́nh
về xă hội, Hồ Biểu Chánh về phong tục,
Hồ Hữu Tường vừa trào lộng, vừa chính
trị giả tưởng... Trong số các tác giả
ấy có thể nói Hồ Biểu Chánh là người có gia
tài văn chương đồ sộ nhứt. Má tôi là
độc giả trung thành của nhà văn này dù bà học
chưa hết bậc tiểu học v́ những cốt
truyện trong các tiểu thuyết của ông gần
với những cảnh đời thường, tâm lư các
nhân vật trong truyện giống như các hạng
người trong xă hội đương thời và
nhứt là lời văn b́nh dị như lối kể
chuyện hay nói chuyện của người miền Nam.
Khi những nhà
văn từ Hà Nội vào Sài G̣n và nhứt là khi lớp
học sinh, sinh viên gốc miền Bắc ra trường
(dù tốt nghiệp hay không) nhập vào lớp đàn anh
đă thành danh tạo nên một lực lượng hùng
hậu các người viết văn gốc Bắc
gần như thống trị môi trường văn
nghệ Sài G̣n. Những Doăn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ
Tế, Mai Thảo, Nguyễn Vỹ...và tiếp nối là
Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Dương Nghiễm
Mậu, Nhật Tiến, Duyên Anh, Nguyễn Thuỵ
Long...xuất hiện thường xuyên trên các tạp chí
văn học ở Sài G̣n hay có các tác phẩm in thành sách.
Các nhà văn
miền Nam tuy có mặt trên văn đàn khiêm nhường
hơn nhưng cũng rất ăn khách: Sơn Nam với
những câu chuyện về các địa phương miền
Nam như xứ Cạnh Đền, xóm Bàu Láng..., B́nh Nguyên
Lộc mà tác phẩm nổi tiếng nhứt là Đ̣
Dọc, Lê Xuyên với Chú Tư Cầu, Ngọc Linh với
Đôi Mắt Người Xưa...
Các nhà văn
gốc miền Trung cũng góp phần cho sinh hoạt
văn chương Sài G̣n thêm náo nhiệt. Cũng nên kể
ra một số khuôn mặt tiêu biểu như Vơ Phiến,
Vơ Hồng, Trần Hoài Thư...
Một hiện
tượng đáng nhắc tới là các nhà văn nữ
trong thời kỳ này cũng từng làm mưa làm gió trên
văn đàn. Nhà văn gốc Bắc có Trùng Dương, miền
Nam có Nguyễn Thị Thuỵ Vũ nhưng ba nhà văn
nữ đ́nh đám nhứt đều là gốc Huế :
Nhă Ca, Tuư Hồng và Nguyễn Thị Hoàng. Đặc
biệt, tác phẩm Ṿng Tay Học Tṛ của Nguyễn
Thị Hoàng trong những năm cuối của thập niên
60 đă gây băo tố trong làng văn chương và cả
ngoài xă hội khi bà đă đưa chuyện t́nh của bà,
một cô giáo (Trâm) với người học tṛ (Minh).
Cũng trong
thời kỳ này, các tạp chí, nguyệt san, tuần báo
về văn nghệ như Bách Khoa , Văn, Văn Học,
Khởi Hành...đưa những tác phẩm văn chương
của các tác giả đến với người
đọc. Tôi cũng có một số bài viết
đăng trong Bách Khoa, Khởi Hành và một số
nhựt báo ở Sài G̣n.
TÔI TRỞ LẠI SÀI G̉N
Cuốn phim
đời Sài G̣n Và Tôi bị gián đoạn hơn hai
năm sau ngày 30/4/1975 lúc tôi đi học tập cải
tạo v́ là giáo chức biệt phái. Mùa tựu
trường niên khoá 1977-1978 tôi được cho dạy
học lại tại trường Nguyễn Trăi quận 4,
vốn là quận nhà của tôi cũng như bà xă tôi.
Nhưng về
sau, nghề dạy học dù có mở lớp dạy thêm
ở nhà cũng không giúp tôi nuôi sống gia đ́nh một
vợ hai con nên chúng tôi nghĩ ra việc mở quán nhậu
v́ vợ tôi có khiếu nấu nướng. Lúc đó,
Việt Nam đang ở trong thời kỳ "bao
cấp" nên số nhà hàng, quán ăn rất ít v́ vậy
ban đầu chúng tôi cũng tạm sống thoải mái.
Nhưng sau này, v́ thấy quán chúng tôi đắt khách
người ta kiếm chuyện hoặc tăng thuế quá
mức khi chúng tôi mở quán tư nhân hay chấm dứt
hợp đồng khi chúng tôi hợp tác mở cửa hàng
ăn uống dưới h́nh thức hợp tác xă, v́
vậy chúng tôi đành phải đi ra nước ngoài.
Nhưng sau 22
năm xa xứ, năm 2008 tôi về hưu , hàng năm vào
dịp tết tôi về Việt Nam để t́m lại
hương vị mùa xuân ở quê nhà. Ngày trước tôi là
người “thường trú”, bây giờ tôi là khách “tạm
trú” của thành phố Sài G̣n dù đây là nơi tôi đă
sống cả nửa đời người.
Bộ mặt Sài
G̣n đă thay đổi. Thành phố lên cao hơn với
những cao ốc chung cư đông hơn với làn sóng
người đến từ miền Bắc, miền Trung
và miền Tây và ồn ào hơn với khối xe gắn máy
dày đặc trên các nẻo đường. Tôi không t́m
thấy lại một Sài G̣n thân yêu, duyên dáng, lịch
sự và văn minh của ngày xưa.
Tuy nhiên, mục
dích tôi trở về Sài G̣n, ngoài việc ăn tết c̣n
để sống lại trong những thân t́nh của gia
đ́nh, bạn bè xưa và học tṛ cũ. Đó là
những ǵ hạnh phúc và ấm áp trong buổi hoàng hôn
của cuộc đời tôi.
Montréal, ngày
5/4/2021