Quỳnh Dao, ngôi sao văn chương Á Châu
vừa chợt tắt
Nữ
sĩ Quỳnh Dao
Quỳnh Dao tên thật là
Trần Triết sinh ra tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung
Quốc trong gia đ́nh có em trai song sinh và hai người em
1 trai, 1 gái. Em gái là Trần Cẩm Xuân (陳錦春), tiến sĩ ngành vật lư hạt nhân
của Đại học Wisconsin (Mỹ), từng cùng
chồng là Trần Tráng Phi thành lập một công ty, khách
hàng là Cục khí tượng của các nước trên
khắp thế giới. Lúc nhỏ thành tích học tập
của Quỳnh Dao không bằng em gái ḿnh, điều này khiến
bà rất tự ti, măi đến khi tốt nghiệp trung
học và trở thành nhà văn nổi tiếng, bà mới
có ḷng tin vào bản thân.
Cha bà là Trần Trí B́nh, giáo
sư Sử học tại trường Đại học
Quốc lập Sư phạm c̣n mẹ là môn đệ
thư hương. Quỳnh Dao sinh ra trong cảnh chiến tranh,
và những h́nh ảnh khói lửa đó đă lưu lại
trong tâm hồn bà nhiều ấn tượng sâu
đậm.
Cụ ngoại Quỳnh Dao
là một thầy thuốc nổi tiếng cuối
đời Thanh và rất ghét tư tưởng phong
kiến hủ bại với quan niệm lạc hậu "con gái không tài
mới là đức". V́ vậy, cụ chủ
trương phải cho con gái được học hành
đến nơi đến chốn. Lớn lên, mẹ và
các d́ Quỳnh Dao đều có tài nghệ riêng và sự
nghiệp vững vàng. D́ cả Viên Hiểu Viên là nhà
ngoại giao đầu tiên của Trung Quốc, d́ tư
Viên Tịnh sinh thời là một nhà văn nổi
tiếng, mẹ bà cũng là nhà văn tài hoa. Có thể nói
năng khiếu sáng tác của Quỳnh Dao được
thừa hưởng từ mẹ.
Năm 1945 khi Quỳnh Dao
lên 7, cuộc kháng chiến của Trung Quốc bước
vào giai đoạn khốc liệt nhất, bà theo cha mẹ
từ Hồ Nam đến Tứ Xuyên lánh nạn,
nương tựa ở nhà một người d́. Thời
điểm đó, hai vợ chồng người d́ mở
một trường trung học dân lập tên là Lô Nam và
Quỳnh Dao đă theo học tại đó, c̣n mẹ bà th́
làm giáo viên. Cũng trong thời gian này, mẹ bà phát hiện
ra năng khiếu văn thơ của con gái và bà bắt
đầu dạy Quỳnh Dao học thơ
Đường. Đó là lần đầu tiên Quỳnh Dao
tiếp xúc với văn học và cảm nhận
được sức lôi cuốn của nó. Từ đó,
bà bắt đầu đi sâu khám phá về lĩnh vực
này.
Năm 1949 Quỳnh Dao theo
cha mẹ di cư tới Đài Loan, đến năm 1958
mới có dịp trở lại Bắc Kinhgặp lại
những người thân. Tại Đài Loan, Quỳnh Dao
học tại trường tiểu học thuộc
trường Sư phạm Đài Bắc và Trung học cao
cấp nữ sinh số 1 Đài Bắc.
Thời trung học, bà là
một học tṛ luôn làm cho các giáo viên phải đau
đầu, cha mẹ phải lo phiền. V́ bà chỉ dành
tâm trí vào môn Trung văn và có vẻ lơ là đối
với các môn khác. Ngoài ra, bà c̣n có những ư nghĩ,
những lư luận kỳ quái. Thường thường,
bà hay phản đối giáo sư về đủ các
chuyện và bất măn về chế độ giáo dục
thời đó. Vốn đa sầu, đa cảm, bà hay
trầm tư và mê đắm trong ảo tưởng.
Nhiều khi các giáo sư phải lắc đầu, bó tay
trước những câu hỏi oái oăm, móc mấy
của bà. Cả cha mẹ cũng lấy làm khó chịu
về thái độ khác thường của bà. Có lúc bà c̣n
hoài nghi cả sinh mệnh lẫn các giá trị sống, t́nh
cảm và nhiều thứ khác.
Sau khi tốt nghiệp
bậc cao trung, Quỳnh Dao có dự hai kỳ thi chuyên khoa
trường đại học nhưng lần nào cũng
trượt. Đây thực sự là một vết
thương ḷng của Quỳnh Dao. Chính v́ sự thất
bại đó nên đă khích lệ bà chuyên tâm vào việc sáng
tác để t́m lại cái bản ngă tưởng chừng
đă bị nền giáo dục lúc ấy ḱm nén.
Năm 1959, bà lập gia
đ́nh với một nhà văn khi mới 21 tuổi và có
một con trai. Sau khi bà trở nên nổi tiếng hơn
chồng ḿnh, cuộc hôn nhân của họ tan vỡ và
kết thúc bằng cuộc ly hôn vào năm 1964. Năm 1979,
bà kết hôn lần thứ hai với ông B́nh Hâm Đào
từng là tổng biên tập của tạp chí Hoàng
Quán.[cần dẫn nguồn] Sau khi ông
bị đột quỵ và mất gần như toàn bộ
khả năng giao tiếp, Quỳnh Dao đă căi nhau với
các con kế của bà về việc có nên tiếp tục đặt
nội khí quản cho ông hay không. Ông qua đời vào ngày 23
tháng 5 năm 2019, hưởng thọ 92 tuổi.
Ngay từ nhỏ, Quỳnh
Dao đă mơ ước trở thành nhà biên kịch,
cứ mỗi lần xem xong một vở kịch, bà
lại cầm bút viết. Kịch bản đầu tay
của Quỳnh Dao chỉ có một cảnh và hai nhân
vật, kể về những nhân vật chính là cha mẹ
của bà, và lời thoại th́ lấy từ những chi
tiết nhỏ nhặt thường ngày trong gia đ́nh.
Năm 16 tuổi, bà
viết bộ tiểu thuyết đầu tay "Vân ảnh".
Năm 24 tuổi, viết gần 100 tập truyện
ngắn, hai bộ tiểu thuyết "Tầm mộng viện"
và "Hạnh
vân thảo". Năm 1963, tác phẩm Song ngoại
được phát hành rộng răi, đánh dấu
bước khởi nghiệp của bà. Đến nay bà
đă sáng tác 56 bộ tiểu thuyết, trong đó 17 bộ
dựng thành phim truyền h́nh và điện ảnh.
Năm 1966, bà chọn tác
phẩm "Kỷ độ tịch dương hồng"
chuyển thể lên màn ảnh rộng. Bộ phim này đă
lăng xê thành công tên tuổi của diễn viên Chân Trân.
Năm 1975, cơn sốt bộ phim "Bên ḍng nước" giúp
Quỳnh Dao nổi tiếng và khẳng định
được vị trí trên thị trường phim
ảnh Đài Loan. Những năm của thập kỷ 80,
ngoài các tiểu thuyết, bà c̣n xuất bản những
tập danh ngôn về t́nh yêu.
Năm 1964, bà bắt
đầu viết và xuất bản những cuốn
tiểu thuyết t́nh cảm lăng mạn đầu tiên
như Song
ngoại và Thố Ty Hoa. Năm 1968, bà thành
lập công ty Hỏa Ô, sản xuất hai bộ phim đầu
tiên là Nguyệt
Măn Tây Lâu và Mạch Sanh Nhân (dựa theo
tác phẩm Hạnh Vân Thảo. Năm 1976, bà thành lập
công ty Cự Tinh.
Đến năm 1986, bà
sản xuất loạt phim truyền h́nh dựa theo
tiểu thuyết Kỷ Độ Tịch Dương Hồng.
Năm 1988, bà trở về thăm quê hương Trung
Quốc đại lục sau gần 40 năm. Việc này
đă tạo cảm hứng cho bà sáng tác và xuất
bản Tuyết
Kha, cuốn tiểu thuyết cổ trang đầu
tiên của bà.
Vào ngày 4 tháng 12 năm 2024,
Quỳnh Dao được phát hiện là đă chết
với một lá thư tuyệt mệnh tại nơi
ở của bà tại quận Đạm Thủy, thành
phố Tân Bắc, Đài Loan. Cảnh sát địa
phương xác nhận rằng đây là một vụ
tự sát. Trong bức thư tuyệt mệnh, bà mô tả
sự ra đi của ḿnh là "nhẹ nhàng", bày tỏ
mong muốn tránh khỏi sự đau khổ của
bệnh tật và viết rằng "Tôi đă thực
sự sống, chưa bao giờ lăng phí đời
ḿnh". Bà hưởng thọ 86 tuổi.
Các tác phẩm của
Quỳnh Dao:
· Song Ngoại (1963)
· Hạnh Vân Thảo (1964)
· Lục Cá Mộng (1964)
· Thố Ty Hoa (1964)
· Ḍng Sông Ly Biệt (Yên
Vũ Mông Mông – 1964)
· Triều Thanh (1964)
· Kỷ Độ Tịch
Dương Hồng (1964)
· Thuyền (1965)
· Nguyệt Măn Tây Lâu (1966)
· Hàn Yên Thúy (1966)
· Tử Bối Xác (1966)
· Tiễn Tiễn Phong (1967)
· Thái Vân Phi (1968)
· Xóm Vắng hay Vườn
rộng sân sâu (Đ́nh Viện Thâm Thâm – 1969)
· Tinh Hà (1969)
· Thủy Linh (1971)
· Hồ ly trắng
(Bạch Hồ – 1971)
· Hải Âu Phi
Xứ (1972)
· Băng Nhi (1985)
· Tuyết Kha (1990)
· Hoàn Châu cách cách (1999)
· Đoạn Cuối
Cuộc T́nh (tháng 8, 2006)
· Không phải hoa chẳng
phải sương (2013)
· Tương tư Thảo
· Bên Bờ Quạnh Hiu
Quỳnh Dao có thể xem
như cùng thời với những người sinh cuối
thập niên 30 và đầu thập niên 40 của thế
kỷ trước nên ảnh hưởng của bà
đối với những nữ văn sĩ của
miền Nam Việt Nam không nhỏ. Trong thời kỳ này,
hiện tượng các nhà văn nữ nổi bật trên
văn đàn miền Nam với Tuư Hồng, Nguyễn
Thị Thuỵ Vũ, Nhă Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Dung Sài
G̣n…là một điều ai cũng thấy. Song song đó,
phải kể đến làn sóng hiện sinh đến
từ phương Tây mà đại diện là nữ sĩ
Françoise Sagan của Pháp với tác phẩm Bonjour Tristesse.
Ca sĩ Kim Anh
Nhưng năm đầu
thập niên 70 của thế kỷ trước, thời
kỳ phim ảnh Trung Hoa (Đài Loan, Hồng Kông) tràn
ngập Sài G̣n, cuốn phim Thái Vân Phi với bản nhạc
“”thiên ngôn vạn ngữ” được
Đặng Lệ Quân hát chuyển thể từ tiểu
thuyết của Quỳnh Dao đă làm rơi nước
mắt biết bao khán giả. Sau này, ca sĩ Kim Anh đă
thể hiện xuất sắc bản nhạc “Mùa thu lá bay”
khiến tên tuổi cô gắn liên với bản nhạc
đă được nhạc sĩ Nam Lộc viết
lời Việt.
Ở miền Nam
trước 1975, hai nhà văn Trung Hoa được yêu
chuộng nhứt là Kim Dung với các tác phẩm vơ hiệp
và Quỳnh Dao với các tiểu thuyết t́nh cảm. Hai
ngôi sao trên văn đàn Á Châu đă tắt, bao giờ
người ta sẽ có được những tài năng văn
chương như vậy?
Huỳnh
Công Ân
Montreal 4/12/2024
Tài
liệu tham khảo:
Wikipedia tiếng Việt Quỳnh
Dao