Quân Đoàn 1 QLVNCH tan ră trong cuộc rút lui khỏi Vùng I Chiến Thuật

 

Tâm trạng hoang mang của quân và dân miền Nam Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973

Khi Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 khởi sự bị các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tấn công dữ dội để rồi thất thủ vào Tháng Ba, 1975, nỗi lo âu rằng Hoa Kỳ đành đoạn bỏ rơi miền Nam Việt Nam lại cho Cộng Sản muốn làm ǵ th́ làm đă trở thành một sự thật cay đắng, nhất là sau khi Hoa Kỳ đă đạt được Hiệp Định Paris 1973 với Cộng Sản Quốc Tế để có thể rút toàn bộ quân đội của họ ra khỏi Việt Nam “trong danh dự,” và sau khi những tù binh Mỹ cuối cùng đă được hồi hương.

Đó chính là hậu quả trông thấy của việc Quốc Hội Mỹ, kẻ nắm hầu bao trong mọi cuộc tiêu pha của chính phủ và quân đội Hoa Kỳ, đă dứt khoát không chi thêm một đô la nào nữa cho cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ $1 tỷ rưỡi trong những năm trước đó, viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa sau năm 1973 đă bị cắt giảm gắt gao, cụ thể là đến tài khóa 1974-1975 th́ chỉ c̣n lại $750 triệu, tức là, trên thực tế, chỉ c̣n có $350 triệu dùng được sau khi khoản viện trợ đó đă bị trừ đi chi phí $300 triệu dành cho phái bộ quân sự Mỹ (DAO, Defense Attaché Office, Saigon) c̣n lưu lại miền Nam Việt Nam cho đến cuối Tháng Tư, 1975.

iễn tượng Việt Nam Cộng Ḥa sắp bị bỏ rơi nửa chừng, cho dù Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă trở nên ngày càng hùng mạnh và có thừa khả năng một ḿnh chiến thắng quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược nếu được vơ trang và tiếp tế đầy đủ như thời gian trước Hiệp Định Paris 1973, đă làm cho tinh thần của quân và dân Miền Nam Việt Nam mau lẹ suy sụp.

Ngón đ̣n cắt giảm viện trợ Mỹ để gây áp lực buộc chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa phải nhường đất cho Cộng Sản hoặc gia nhập vào một chính phủ liên hiệp với phe Cộng Sản, trên thực tế, đă gây thiệt hại nặng nề cho nỗ lực chiến đấu chống lại cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt.

Về mặt kinh tế, những đợt cắt giảm viện trợ tài chánh liên tiếp trong những năm 1973-1975 đă làm cho đồng bạc Việt Nam Cộng Ḥa bị phá giá trầm trọng, và mức sống của những người có đồng lương cố định, như giới quân nhân và công chức, tại miền Nam Việt Nam bị sa sút thê thảm.

Về mặt quân sự, việc cắt giảm mức tiếp đạn được và quân trang, quân dụng cho miền Nam Việt Nam trong khi chiến cuộc đang gia tăng cường độ đă đặt các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vào thế hết sức bất lợi. Bởi v́ các tiền đồn hẻo lánh không được trọng pháo và phi cơ yểm trợ, cho dù đó là một trận đánh lớn của địch cỡ cuộc tấn công vào Tiểu Khu Phước Long hồi cuối năm 1974 hoặc là một trận đánh nhỏ vào xă Khánh An ở Thới B́nh thuộc tỉnh An Xuyên (Cà Mau) hồi đầu năm 1975.

Quân Đoàn 1 tan ră

Ngày 14 Tháng Ba, 1975, trong một cuộc họp tại Dinh Độc Lập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH quyết định rút bớt Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù từ Quân Đoàn 1 về để bảo vệ thủ đô Sài G̣n, đồng thời ra lệnh cho

NgoQuangTruong.jpg

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1, rút quân từ các nơi khác về pḥng thủ vùng duyên hải từ Huế và Đà Nẵng cho tới Chu Lai trong kế hoạch “co cụm” lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa về hướng Quân Khu 3 và Quân Khu 4.

Ngày 19 Tháng Ba, tức là chỉ ba ngày sau khi các lực lượng Quân Đoàn 2 khởi sự cuộc di tản cồng kềnh và đẫm máu – v́ quân và dân lẫn lộn – khỏi Cao Nguyên trên liên tỉnh lộ 7B, các lực lượng Quân Khu 1, trong đó có Thủy Quân Lục Chiến, khởi sự rút khỏi Quảng Trị, về lập pḥng tuyến ở Mỹ Chánh ở phía Bắc Huế.

Tuy nhiên, đến tối ngày 20 Tháng Ba, Tổng Thống Thiệu lại ra lệnh rút nốt Lữ Đoàn 2 Dù về Sài G̣n. Thế là Quân Khu 1 chỉ c̣n có Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho Quân Đoàn mà thôi, lúc đó gồm có các Sư Đoàn 1, 2 và 3. Tướng Trưởng đâm ra bối rối trước sự thể quân Cộng Sản Bắc Việt ngày càng gây áp lực nặng nề, với thêm bốn sư đoàn sẵn sàng vượt sông Bến Hải và kết hợp với các đơn vị của Cộng Quân đă có sẵn tại vùng Hỏa Tuyến nhằm tiến chiếm toàn bộ Quân Khu 1.

Ngày 21 Tháng Ba, Cộng Quân đă cắt đứt Quốc Lộ 1 ở Truồi (giữa Huế và Đà Nẵng) và đóng chốt ở đèo Phú Gia. Như thế, đoạn đường bộ giữa Huế và Đà Nẵng đă bị Cộng Quân khống chế. Ngày 25 Tháng Ba, Tướng Trưởng quyết định cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến rút ra cửa Thuận An trong khi Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Địa Phương Quân được lệnh xuống cửa Tư Hiền đề các tàu của Hài Quân VNCH đến đón.

Trong t́nh thế hỗn độn khi quân và dân Vùng I chen chúc nhau chạy loạn giữa những đợt pháo kích truy đuổi của Cộng Quân, cả hai đoàn quân rút lui nói trên đă tan ră tại hai cửa biển này, và khi về tới Đà Nẵng th́ chỉ c̣n lại một phần ba quân số. Cuộc rút lui của Sư Đoàn 2 Bộ Binh tương đối thành công hơn chút đỉnh v́ họ chỉ phải di chuyển từ Chu Lai ra bờ biển để được tàu Hải Quân chở ra Cú Lao Ré ở gần đó, v́ thế hơn phân nứa sư đoàn này đă về tới B́nh Tuy

Ngày 27 Tháng Ba, 1975, t́nh h́nh Đà Nẵng vô cùng nghiêm trọng, quân Cộng Sản Bắc Việt dùng đủ loại trọng pháo và súng cối pháo kích liên tục vào Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 1 và nhiều nơi trong thành phố Đà Nẵng, tạo bất ổn và gây nhiều thương vong cho các lực lượng đồn trú, đồng thời làm cho tinh thần của dân chúng thêm hoảng loạn. Hơn nữa, dân chúng từ Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi… đổ về đây quá đông từ nhiều ngày trước khiến chính quyền và các lực lượng an ninh không thể nào kiểm soát được t́nh h́nh tại chỗ. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đành ra lệnh rút bỏ Đà Nẵng.

Ngày 28 Tháng Ba, tàu Hải Quân đến Đà Nẵng đón binh sĩ và dân chúng di tản đưa vào Nha Trang, Cam Ranh, và Vũng Tàu, với ưu tiên dành cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến từng hứng chịu những tổn thất nặng nề trong cuộc rút lui hỗn độn dẫn đến sự tan ră của Quân Đoàn 1 và Vùng I Chiến Thuật.

Ngày 29 Tháng Ba, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tiến vào chiếm đóng đô thị lớn hàng thứ hai tại miền Nam Việt Nam, thành phố từng giữ  một vị trí chiến lược độc đáo kể từ khi người Pháp khởi sự cuộc chiến tranh chinh phục Việt Nam hồi năm 1858. Rồi hơn một thế kỷ sau đó, hồi năm 1965, các lực lượng Mỹ bắt đầu đổ bộ vào miền Nam Việt Nam để cứu văn t́nh h́nh quân sự nguy ngập tại đây, và bây giờ khi Cộng Sản Bắc Việt bỗng chốc trở thành chủ nhân nơi này trên đường tiến quân về Nam để đánh chiếm Sài G̣n.

Tàn cơn binh lửa

Trước khi thực hiện kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, một đồng minh quan trọng tại Đông Nam Á, không những chỉ trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 mà c̣n kéo dài cho tới những thập niên đầu của thế kỷ 21 nữa, Quốc Hội và chính phủ Hoa Kỳ, được sự hỗ trợ tích cực của nền báo chí thiên tả cố hữu trong nước, đă t́m cách đổ hết mọi tội lỗi lên đầu chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa để ru ngủ lương tâm mà phủi tay trước cuộc diện tồi tệ. Nào là chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa tham nhũng, nào là quân đội Việt Nam Cộng Ḥa thiếu khả năng, nào là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu độc tài và phe đảng, vân vân.

Từ cuối năm 1972 tới đầu năm 1975, nhiều phái đoàn của Quốc Hội Mỹ đă được cử đến miền Nam Việt Nam để hạch sách và điều tra về t́nh trạng tham nhũng trong chính quyền và quân đội, về cách đối xử với các tù nhân tại các nhà lao không đúng với Công Ước Geneva về tù binh chiến tranh, về hành vi kiểm duyệt và bóp nghẹt báo chí trong nước, về tin đồn chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam bán thuốc Tây và đạn dược cho Cộng Sản… Tất cả chỉ với mục đích t́m cho ra ít nhất một cái cớ nào đó để có thể bỏ rơi không thương tiếc Việt Nam Cộng Ḥa, một đồng minh thân thiết và quan trọng mà chỉ ba thập niên sau họ lại bắt đầu cảm thấy sự sinh tồn của người bạn đó là thiết yếu cho nền an ninh của thế giới tại vùng Ấn Độ và Thái B́nh Dương trước hiểm họa bành trướng hầu như không có ǵ cản nổi của Cộng Sản Trung Hoa.

ặc dù hầu hết quân và dân tại miền Trung Việt Nam – và sau đó là toàn thể dân chúng miền Nam Việt Nam – đều phải hứng chịu những hậu quả tàn khốc do sự tan ră bất ngờ của Quân Đoàn 1 QLVNCH nơi địa đầu giới tuyến, tưởng cũng nên ghi nhận rằng, giữa những tang thương, bi hận đó của cuộc chiến, Tướng Ngô Quang Trưởng và Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, éo le thay, lại nằm trong số các nạn nhân đáng thương của cuộc lui binh hết sức đáng tiếc đó.

Tướng Trưởng, một vị tướng lănh tài ba và trong sạch của QLVNCH với biết bao chiến công lừng lẫy, bỗng dưng trở thành một bại tướng trong t́nh thế hỗn loạn và mờ mịt của cuộc rút quân mà ngay từ những giờ phút đầu tiên đă vượt khỏi tầm kiểm soát của ông.

Đại Tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, trước kia là cố vấn cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng và sau này trở thành tư lệnh cuộc Hành Quân Băo Sa Mạc (Desert Storm) ở Iraq hồi năm 1991, nhận định rằng Tướng Trưởng là “vị tư lệnh tác chiến sáng chói nhất mà ông từng được biết tới” (Truong was “the most brilliant tactical commander I’d ever known”).

C̣n Lữ Đoàn 147 của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến “bách chiến, bách thắng” th́ hầu như bị bỏ quên (v́ không có ai đến đón họ xuống tàu di tản như đă định trong kế hoạch hành quân) tại băi biển Thuận An, khiến lữ đoàn này phải một ḿnh chiến đấu giữa ṿng vây của các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt. Để rồi lữ đoàn này đành phải cay đắng hứng chịu số thương vong cao nhất, với hàng trăm chiến binh tử trận trong giao tranh và dưới mưa pháo của địch cùng với hàng ngh́n chiến binh khác bị địch bắt sống sau khi họ đă chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng mà không được tiếp tế, đừng nói chi tới tiếp viện.

 (Vann Phan)