QUẬN 4, TRƯỜNG NGUYỄN TRÃi VÀ TÔI
Tuỳ bút Huỳnh Công Ân
Tôi lớn lên ở quận 4 từ năm lên ba.
Ký ức tôi còn giữ những biến cố xảy ra
ở quận nhà như vụ cháy nhà ở chợ Cầu Cống năm 1948 mà gia
đình tôi chạy lánh nạn ở sân banh bên hông xưởng bóng đèn Khánh Hội, hay đám cháy tết năm 1953 mà gia đình tôi dọn đồ chạy sang khu nhà lầu của ông Ba Lầu, Tôi nhớ hai lần đó vì
còn nhỏ và quá sợ hãi nên tôi khóc suốt cuộc. Rôi biến cố Bình Xuyên năm 1955, nhà tôi chạy tỵ nạn sang nhà cô
tôi bên Phú Nhuân.
Tôi học tiểu học ở trường
Cao Văn (sau đổi là Công Danh) của thầy Năm Chan, ông ấy cũng là thầy của mẹ tôi khi
còn ở Trà Vinh. Cùng ở trên đường Tôn Đản ( trước là
Matelot Manuel) có trường
Việt Tân và ở
chợ Xóm Chiếu có
trường Minh Tâm và
trường Huỳnh Công (chẫng có họ hàng gì với tôi). Lúc đó ở quận 4 chưa có
trường trung học nào. Quận 4 chỉ có hai trường tiểu học công lập (lúc đó gọi là trường nhà nước) là Khánh Hội và Vĩnh Hội.
Hồi còn nhỏ tôi cũng thuộc loại “quậy”, có một đêm lúc tôi khoảng 9, 10 tuổi, tôi
đi với thằng Voi, bạn cùng xóm
ra đường
Matelot Manuel, khoảng nhà bảo sanh Đại Đức mà
người ta thường gọi là nhà
thương Cô Mụ
Điếc để phân biệt với nhà thương Con Cò gần đường Jean Eudel (
thời ông Diệm là Trình
Minh Thế, sau 75 là Nguyễn Tất Thành). Ở đó nhờ có nhiều cột đèn khí(đèn điện) nên dế cơm tụ tập nhiều.
Bọn tôi thích bắt
dế cơm, nhét vào bụng chúng một hột đậu phọng rồi
nướng lên ăn rất ngon.
Xui xẻo, một tên cảnh sát Tây của bót (đồn) 6è bureau tức là quận 6 nay là quận 4 đang núp ở hẻm Bata với một chiếc xích lô
đạp để canh bắt
những người vi phạm giờ giới nghiêm (ấn định lúc đó là 8 giờ tối). Tên này được mệnh danh là tên biện mặt đỏ, rất hung
dữ.
Khi chúng tôi đi ngang hẻm thì tên biện Tây bước ra ngoắc chúng tôi vô, đoạn ra hiệu cho anh xích lô
chở chúng tôi về bót. Tới bót, họ để chúng tôi nằm lăn ra sàn ngủ. Đang ngủ say, bỗng ai lay
mạnh vai tôi, mở
mắt ra tôi thầy ba tôi. Thì
ra ba tôi thấy tôi
không về nhà nên nhờ bác sáu Cải, làm rờ sẹc (recherche) tức là công
an chìm dẫn lên bót lãnh tôi và thằng Voi ra.
Những buổi trưa hè, tôi
theo đám bạn ra
Bến Súc tập
bơi. Lúc đầu, tôi
bơi bằng cái ruột xe hơi bơm cứng làm
phao. CóLần tôi bơi ra cầu ba ( cầu để tàu cặp bến mang số 3), leo lên cầu, quăng cái phao xuống nước trước rồi nhảy
theo vào bên trong phao. Chẳng may, tôi nhảy trật ra ngoài. Hoảng hốt, tôi bơi một mạch vào bờ và khám phá ra là mình đã biết bơi. Sau khi tắm xong, tôi ngồi phơi nắng cho tóc khô
mới dám về nhà. Như thế ba má tôi không biết tôi đi tắm sông.
Năm 1977, sau khi đi học tập cãi tạo về tôi được phòng Giáo Dục quận 4 cho về dạy học
lại ở trường trung học phổ thông Nguyễn Trãi.
Vốn sống ở quận 4, nay lại
dạy học tại quận nhà nên học trò của tôi là những người hàng xóm
của tôi , vợ tôi lại là người sinh trưởng ở trong chợ
Cầu Cống, nên trước khi lập gia đình với tôi thì vợ tôi được các em gọi bằng chị nhưng sau khi vợ
tôi lấy tôi thì
các em sửa lại cách
xưng hô là cô.
Thời kỳ bao cấp kinh tế khó
khăn, để nuôi sống gia đình một vợ và hai con,
ban đầu tôi mở lớp dạy thêm
toán ở nhà từ lớp 6 đến luyện thi
đại học. Sau này nhờ vợ tôi có tài nấu nướng, chúng tôi
mở quán ăn ở đường Tôn
Đản đặt tên là
quán Chim Sẻ.
Sau 6 năm dạy ở trường
Nguyễn Trãi, tới
năm 1986 tôi định
cư ở nước ngoài. Mãi đến năm 2008, khi đã về hưu tôi mới về thăm Việt Nam lần
đầu tiên. Từ đó, mỗi năm tôi đều về Việt Nam vào dịp tết vừa để trốn cái lạnh cắt da mùa đông của Canada, vừa để hưởng
không khí tưng bừng,
ấm áp đón mừng
năm mới ở quê nhà.
Tình cờ, năm 2013 em Nguyễn Thị
Diễm cựu học sinh Nguyễn Trãi biết được email của tôi nên
liên lạc với tôi và
cây cầu thân ái thầy trò giữa tôi và các em cựu học sinh Nguyễn Trãi
được
nối lại sau hơn 30 năm gián đoạn.
Những năm sau đó, mỗi lần về Việt Nam vợ
chồng tôi tìm được
niềm vui bên cạnh các em học trò cũ qua các buổi họp mặt vui chơi hay nhũng
chuyến đi chơi xa. Mỗi ngày, có khi là buổi sáng, có khi là buổi tối, ngồi ở quán cà
phê, các em không quên gọi
điện thoại mời thầy cô ra
chơi.
Các em học sinh của tôi nay đã thuộc lứa tuổi ngũ tuần,
nữ thì đã tới
tuổi hưu, nam thì còn làm việc một vài năm nữa. Tôi rất mừng có nhiều em thành đạt có cuộc sống sung túc, nhưng ngược lại cũng rất lo lắng cho
những em vất vả trong cuộc mưu sinh.
Tuy nhiên, các em vẫn vui đùa với nhau như thời còn
đi học và không khí vui nhộn đó lây lan đến tôi làm cho tôi cảm thấy trẻ lại.
Đó là niềm an ủi của tôi ở tuổi hoàng hôn của cuộc đời. Và nếu có kiếp sau tôi vẫn muốn làm nghề thầy giáo để được các em
ân cần, ưu ái
trong tình sư đệ dù giờ đây thầy trò “tóc bạc như nhau”.
Sài Gòn đầu xuân Mậu
Tuất 2018
(Đã đăng trong Kỷ Yếu 40 Năm Nguyễn Trãi
71-78)