NHỮNG NGÔI TRƯỜNG TRUNG HỌC TIÊU BIỂU CỦA MIỀN NAM TRƯỚC 1975

(Tiếp theo)

 

Chỉ tồn tại có 21 năm, từ di sản của nền giáo dục thuộc địa của Pháp chế độ Việt Nam Cộng Hoà đă khai sinh một nền giáo dục Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng mà giá trị đến ngày nay không ai có thể phủ nhận được. Là một người từng ở trong ngành giáo dục của miền Nam, nh́n thấy sự vong thân của hệ thống trường học xà hội chủ nghĩa ngày nay ở Việt Nam, tôi không thể nào không luyến tiếc những ngôi trường của miền Nam trước 1975 đă đi đúng ba mục tiêu trên . Trong phạm vi bài này xin chỉ nhắc đến một số trường trung học tiêu biểu ở các đô thị lớn như Sài G̣n, Huế , Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt. Tuy nhiên các trường trung học ở các địa phương khác cũng hoàn thành nhiệm vụ không thua kém các trường được nêu tên.

 

.

 

Phần 2: Những ngôi trường di cư từ miền Bắc năm 1954

 

-Trường trung học Chu Văn An, Sài G̣n

 

 

Người ta thường nói tiền thân của trường Chu văn An là trường Bưởi. Thực ra tên Bưởi không phải là tên chính thức. Tên chính thức của trường Bưởi lúc đầu là Collège des Interprètes. Nhưng chẳng bao lâu th́ trường được đổi tên là Collège du Protectorat rồi tới năm 1930, trường lại được đổi tên lần nữa thành Lycée du Protectorat.

*

Trường này do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập với mục đích đào tạo thông ngôn (thông dịch viên), phán sự (thư kư hành chánh) cho chính quyền bảo hộ. Trường được xây cất vào năm 1907 trên một khu đất rộng hơn 10 mẫu tây thuộc làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hànội), nằm dọc theo Hồ Tây từ gần đền Quan Thánh tới gần Ô Cầu Giấy thuộc làng Yên Thái c̣n gọi là làng Bưởi, nên dân Hànội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi cho tiện.

 

Trường khai giảng niên khóa đầu tiên vào năm 1908 đủ cả bốn lớp, từ première année tới quatrième année (tức từ lớp 6 đến lớp 9), đúng nghĩa là một trường Thành Chung (Grand Collège, thời Việt Nam Cộng Ḥa gọi là trường Trung Học Đệ Nhứt Câp). Vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Bưởi là giáo sư người Pháp tên Cyprien Mus. Các Hiệu Trưởng kế tiếp là các giáo sư Donnadieu, giáo sư Lomberger, giáo sư Pouget, giáo sư Autigeon, giáo sư Houlié, giáo sư Perruca và giáo sư Farchil. Nhưng cũng trong năm này (1908) trường Collège Jules Ferry ở Nam Định đóng cửa, nên tất cả các học sinh của trường này được chuyển lên trường Bưởi. Do đó trường Bưởi trở thành một trường Trung Tiểu Học, gồm cả hai cấp : cấp Tiểu Học (Petit Collège) từ lớp Tư (Cours Préparatoire) đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cấp Trung Học (Grand Collège) c̣n gọi là Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur), sau này, thời Việt Nam Cộng Ḥa được gọi là Trung Học Đệ Nhứt Cấp.

 

Tới năm 1926, cấp Tiểu Học được băi bỏ, thay thế vào đó cấp Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat d’Enseignement Secondaire Local); do đó trường được đổi thành Lycée du Protectorat. Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, th́ từ niên khóa 1924-1925, chương tŕnh học được kéo dài thêm 3 năm nữa, tổng cộng là 7 năm và các môn học không những cũng đầy đủ như ban Tú Tài của Pháp mà c̣n thêm cả phần học về văn hóa Á Đông nữa, nhưng măi tới năm 1930 trường mới thực sự được đổi tên thành Lycée du Protectorat.

 

Năm 1943, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương, t́nh h́nh trở nên nghiêm trọng. Để tránh bom đạn của máy bay Đồng Minh đánh phá các căn cứ quân sự của Nhật, trường Bưởi đă phải chia ra làm ba nhóm di tản đi ba nơi khác nhau c̣n trường th́ bị binh lính Pháp chiếm làm chỗ đóng quân :

Nhóm 1 : Ban Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur) di chuyển vào Phúc Nhạc thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh B́nh.

Nhóm 2 : Ban Tú Tài (Baccalauréat) di chuyển vào Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Nhóm 3 : Ban Classique Latin nhập vào trường Lycée Albert Sarraut, di chuyển về Chợ Trâu, thuộc thị xă Hà Đông. Chính v́ sự sát nhập này mà nhiều cựu học sinh Bưởi chỉ nhớ tới nhóm 1 và 2 mà thôi.

 

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, Ngày 12 tháng 5 năm 1945, Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ  là giáo sư Hoàng Xuân Hăn kư nghị định đổi tên trường Lycée du Protectorat thành trường Trung Học Chu văn An, tên của một danh sư đời Trần, người đă dám dâng sớ xin chém đầu bẩy tên nịnh thần gian ác, hại dân hại nước, và vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là giáo sư Ḥang Cơ Nghị (lúc này trường c̣n đang ở Sầm Sơn Thanh Hóa).

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách Mạng Mùa Thu bùng nổ, Việt Minh nổi lên cướp chính quyền, trường được di chuyển về thị xă Hà Đông và giáo sư Nguyễn Gia Tường được đề cử làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Hoàng Cơ Nghị vào ngày 1 tháng 10 năm 1945 c̣n Giám Học là thầy Nguyễn Văn Chính. Cũng trong tháng này, niên khóa đầu tiên mang danh trường Chu Văn An đă được khai giảng. Được ít lâu, trường lại di chuyển về chùa Láng trên đường Hà Nội đi Hà Đông, rồi về Đông Dương Học Xá ở Bạch Mai, gần Hà Nội.

 

Tới năm 1946, trường lại rời về trường nữ trung học cũ cuả Pháp (Collège des Jeunes Filles) ở đường Félix Faure, kế bên nhà thờ Cửa Bắc, gần vườn hoa Canh Nông ở Hà Nội và vị giáo sư Quốc Văn nổi tiếng thời bấy giờ là giáo sư Dương Quảng Hàm được cử lên làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Nguyễn Gia Tường vào ngày 14 tháng 12 năm 1945, c̣n Giám Học là thầy Nguyễn Đ́nh Phong. Nhưng cũng chẳng được bao lâu th́ ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Các cơ quan đầu năo quan trọng đều được chính phủ Việt Minh di tản ra hậu phương hoặc lên mạn ngược, c̣n các cơ quan khác không quan trọng đều đương nhiên bị giải tán. Trường Chu Văn An không phải là cơ quan quan trọng nên cũng nằm chung trong số phận này .

Đêm 26 tháng 12 năm 1946, giáo sư Hiệu Trưởng Dương Quảng Hàm bị đạn lạc chết trên đường tản cư, khi đang lội qua sông. Xác giáo sư không biết trôi dạt nơi đâu! . Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân 1991, th́ giáo sư Dương Quảng Hàm đă bị nạn chết ngay đêm đầu tiên cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ tức đêm 19 tháng 12 năm 1946 và xác của ông có thể đă được vùi chôn trong ngôi mộ tập thể ở cạnh ṭa án Hà Nội trên đường Lư Thường Kiệt,

 

Năm 1947, Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan và chính phủ Quốc Gia được thành lập, nhưng măi tới ngày 26 tháng 1 năm 1948 trường Chu Văn An mới được tái lập và hoạt động trở lại. Trường sở được đặt tại trường nữ trung học Thanh Quan, tục gọi là trường Hàng Cót tức trường R. Brieux cũ và giáo sư Sử Địa Mai Văn Phương được cử giữ chức Hiệu Trưởng vào tháng 2 năm 1948, Giám Học là thầy Đỗ Văn Hoán.

Niên khóa 1949-1950, trường lại một lần nữa được đổi về trường nữ trung học Đồng Khánh nằm trên đường Đồng Khánh, nay gọi là Phố Hàng Bài Hà Nội và vị Hiệu Trưởng lần này là Giám Đốc Học Chính Bắc Việt Đỗ Văn Hoán kiêm nhiệm, Giám Học là thầy Phan Đ́nh Hoan nhưng cũng không được bao lâu th́ trường lại chia đôi : một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (College Đỗ Hữu Vị?), nơi đào tạo các giáo viên bậc tiểu học, tại đường Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc và vị Hiệu Trưởng lần này là giáo sư Phạm Xuân Độ. C̣n nửa số học sinh ở lại (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Trăi.

Tới niên khóa 1950-1951, giáo sư Vũ Ngô Xán lên làm Hiệu Trưởng, Giám Học là thầy Vũ Đức Thận. Cũng trong thời gian này, Hiệu Đoàn kỳ với ngọn lửa mầu đỏ trên nền xanh da trời và Hiệu Đoàn ca với bản hùng ca Chu Văn An Hành Khúc do giáo sư Nhạc Sĩ Thẩm Oánh sáng tác ra đời.

 

Tới ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, trường Chu Văn An cũng cùng chung số phận, một nửa theo lệnh của bộ Quốc Gia Giáo Dục di cư vào Nam, trong đó có Giáo Sư Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán, Giám Học Vũ Đức Thận và hầu hết các giáo sư nổi tiếng như Hoàng Cơ Nghị, Đào Văn Dương, Bạch Văn Ngà, Lê Văn Lâm, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Lê Ngọc Huỳnh, Bùi Đ́nh Tấn, Trần Đ́nh Ư …

 

Khi di cư vào Nam, v́ chưa có trường sở riêng, trường Chu Văn An phải học nhờ trường Pétrus Kư. Trường Pétrus Kư học buổi sáng, trường Chu Văn An học buổi chiều.

 

Tới niên khóa 1955-1956, nhờ sự vận động của Bộ Giáo Dục nên trường được cấp cho một building hai tầng lầu ngay đằng sau trường Pétrus Kư, nhưng cổng vào nằm trên đường Trần B́nh Trọng. Building này nguyên trước là kư túc xá của học sinh Pétrus Kư, sau bị Công An Xung Phong của B́nh Xuyên chiếm làm trụ sở nhưng đă bỏ chạy sau biến cố B́nh Xuyên 1955. Giáo sư Vũ Ngô Xán tiếp tục làm Hiệu Trưởng đến niên khóa 1956-1957 th́ giáo sư Trần Văn Việt, nguyên Hiệu Trưởng trường Nguyễn Trăi sang thay thế. Giám Học là thầy Nguyễn Hữu Văn. Đầu niên khóa 1957-1958, trường được nới rộng sang khu nhà in Caravelle cũ (c̣n gọi là khu chuồng ngựa), cạnh sân vận động trên đường Trần B́nh Trọng.

 

Niên khóa 1961-1962, trường Chu Văn An mới thực sự có trường sở mới tọa lạc tại góc đường Minh Mạng – Triệu Đà nhưng cũng chỉ mới di chuyển được các lớp Đệ Nhất Cấp. Sang niên khóa 1962-1963, trường mới hoàn toàn rời bỏ trường cũ để di chuyển về trường mới. Tới niên khóa 1963-1964 thày Giám Học Nguyễn Hữu Văn lên làm Hiệu Trưởng rồi kế tiếp là các gíao sư Đàm Xuân Thiều, Bùi Đ́nh Tấn, Dương Minh Kính và Nguyễn xuân Quế

 

Kể từ ngày trường Bửơi được đổi tên thành trường Chu Văn An, 1945 cho tới ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, 1978, tổng cộng là 42 năm, trải qua 14 đời Hiệu Trưởng :

 

1945-1946: GS Hoàng Cơ Nghị, GS Nguyễn Gia Tường,.GS Dương Quảng Hàm, .GS Trần Văn Khang

1946-1948 : Tản cư

1948-1949 : GS Mai Văn Phương,

1949-1950 : GS Đỗ Văn Hoán

1950-1951 : GS Phạm Xuân Độ

1951-1957 : GS Vũ Ngô Xán

1957-1959 : GS Trần Văn Việt

1959-1963 : GS Nguyễn Hữu Văn

1963-1964 : GS Đàm Xuân Thiều

1964-1965 : GS Bùi Đ́nh Tấn

1965-1968 : GS Dương Minh Kính

1968-1975 : GS Nguyễn Xuân Quế.

 

Suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ, từ 1905, ngày trường Bưởi được thành lập, đến 1978, ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, trường Bưởi-CVA đă sản xuất không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước, cho mọi ngành nhất là trong lănh vực văn học và giáo dục.

Những chức vụ lănh đạo cao nhất nh́ của đất nước như Thủ Tướng th́ có Giáo Sư Trần Trọng Kim, Bác Sĩ Phan Huy Quát v.v… Chức vụ Thủ Hiến th́ có ông Nguyễn Hữu Trí. Chức vụ Tổng Bộ Trưởng th́ có cụ Phạm Quỳnh, cụ Cung Đ́nh Qùy, Giáo Sư Hoàng Xuân Hăn, Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm, Luật Sư Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, Giáo Sư Vũ Quốc Thông, ông Nguyễn Lương, Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh, Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Luật Sư Vương Văn Bắc v.v…Chức vụ Khoa Trưởng các trường Đại Học th́ có Giáo Sư Nguyễn Chung Tú, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Giáo Sư Đặng Văn Chiếu, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, Giáo Sư Nguyễn Cao Hách, Giáo Sư Nguyễn Đ́nh Ḥa v.v…

Trong lănh vực khoa học chúng ta có Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Kỹ sư Nguyễn Mạnh Tiến v.v…

Trong giới quân nhân, nhiều người đă lên tới cấp tướng như Phan Phụng Tiên, Lê Nguyên Khang, Phan Trọng Chinh, Bùi Thế Lân, Hoàng Cơ Minh v.v…và nhiều người đă bỏ ḿnh ngoài chiến trường như Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn v,v… để bảo vệ miền Nam tự do hoặc quyết chết vinh chứ không chịu sống nhục dưới chế độ Cộng Sản như Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn v.v…vào ngày 30/4/1975.

 

Tôi từng học lớp Đệ nhứt B6, niên khoá 1961-1962, lúc thầy Trần Văn Việt là hiệu trưởng và thầy Nguyễn Văn Kỷ Cương làm giám học.

 

-Trường nữ trung học Trưng Vương, Sài G̣n.

 

 

Trường nữ Trung học Trưng Vương Sài G̣n là một trong các trường trung học công lập danh tiếng, dành riêng cho nữ học sinh, tọa lạc trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đối diện Thảo Cầm Viên Sài gòn.

Trường Trưng Vương, hậu thân của ngôi trường tại Hà Nội, được thiết lập khi một số giáo sư học sinh trường Trưng Vương Hà Nội di cư vào Sài g̣n, sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước năm 1954.

 

Năm 1917, theo Nghị định 2229, kư ngày 10/11/1917, chính quyền Pháp mở Cơ sở giáo dục Nữ sinh Việt Nam (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc học Tiểu học và Cao đẳng Tiểu học. Nữ sinh được học các môn chính là chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lư, luân lư, phép xă giao, vệ sinh với các cô giáo người Pháp, c̣n các môn học nữ công gia chánh như quản lư gia đ́nh, may vá, thêu, nấu ăn… với các cô giáo người Việt. Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi. Việc mở các trường nữ học đ̣i hỏi phải tuyển giáo viên là nữ để dạy môn tiếng Việt và vệ sinh phụ nữ. Ở Bắc kỳ, nữ giáo viên người Pháp không biết tiếng Việt nên rất khó khăn trong việc chuyển tải kiến thức và nữ giáo viên người Việt thiếu rất nhiều. Thời gian đầu chỉ có ít nữ giáo viên người Pháp và tuyển được một vài cô tốt nghiệp Trường Tiểu học Hàng Cót. V́ những khó khăn về giáo viên, năm 1917, chính quyền Pháp cho mở Cơ sở Đào tạo giáo viên nữ người Việt (École normale d’Institutrices annamites), cơ sở này ban đầu hoạt động song song như một cơ sở phụ trợ cho Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt. Về trường, lớp, năm 1918, chính quyền Pháp cho xây dựng khu trường học nằm trên phố Félix Faure dành cho Cơ sở Giáo dục nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo nữ giáo viên người Việt của Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh bản xứ. Trong suốt khoảng chục năm, số học sinh các trường Pháp và trường bản xứ tăng lên, nhu cầu học sinh nội trú cũng tăng, khiến chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng phải cho xây dựng, sửa chữa, mở rộng nhiều trường, lớp, pḥng ăn, pḥng ngủ đáp ứng nhu cầu của cha mẹ học sinh.

 

Giữa tháng 8 năm 1928, công tŕnh xây dựng và mở rộng ngôi trường này hoàn thành, được bàn giao cho nhà trường để kịp khai giảng ngày 11 tháng 9. Ngay năm học này, các trường Pháp và bản xứ có sự hoán đổi. Trường Cao đẳng Nữ sinh Pháp rời chuyển từ phố Hai Bà Trưng về phố Félix Faure

 

Trường Trung học Paul Bert (hay Cao đẳng Tiểu học Nam sinh Pháp) rời chuyển từ phố Hàng Bài về ăn, ở, học thế chỗ Trường Cao đẳng nữ sinh Pháp ở phố Hai Bà Trưng. Toàn bộ ngôi trường Paul Bert vừa được xây thêm, mở rộng dành riêng cho Trường Cao đẳng tiểu học nữ sinh người Việt gồm Cơ sở Giáo dục Nữ sinh người Việt và Cơ sở Đào tạo giáo viên Nữ người Việt chuyển từ phố Félix Faure về phố Hàng Bài, theo dự án kiện toàn và chuyển đổi trường, lớp do Nha Học chính Đông Dương tại Hà Nội báo cáo và lập ngày 31 tháng 12 năm 1925.

 

Năm 1943, Trường nữ Trung học Đồng Khánh sơ tán về Hưng Yên. Đến tháng 10/1945, trường dọn về khu học Hoàng Mai, khu Đại lư Hà Nội. Ngày 14/2/1946, Bộ Trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đ́nh Ḥe ra Nghị định, số 85 đổi tên những trường trung học tại Bắc Bộ. Theo đó, Trường Nữ Trung học Hà Nội đổi tên gọi là Trường Trung học Hai Bà Trưng .

 

Đến đầu năm 1948, Cơ sở trường Hàng Bài vẫn chưa được dùng lại làm trường học. Trường Nữ Trung học phải chuyển đến phố Hàng Than và đến cuối năm, trường chuyển về cơ sở số 9 phố Hai Bà Trưng . Năm ấy cũng là một mốc thời gian quan trọng, đánh dấu một lần đổi tên mới là Trường Nữ Trung học Trưng Vương.

 

.Ban giám đốc đầu tiên ở miền Nam gồm có: bà Hiệu trưởng Tăng Xuân An, bà Giám học Nguyễn Thị Phú.

Năm học đầu, trường phải học nhờ cơ sở của trường Gia Long (khóa buổi chiều).Đến năm 1957, trường Trưng Vương dời về số 3 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, nguyên trước đó là bệnh viện của quân đội Pháp mang tên là Quân y viện Coste, đối diện Sở Thú Sài g̣n và cạnh trường Trung học Vơ Truờng Toản.

 

-Trường trung học Nguyễn Trăi, Sài G̣n.

Trường trung học Nguyễn Trăi được thành lập từ sự phân chia ra làm hai phần của trường trung học Chu Văn An Hà Nội vào khoảng năm 1950 : Một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường Chu Văn An về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (Collège Đỗ Hữu Vị?) Cửa Bắc, góc phố Đỗ Hữu Vị và Quan Thánh , nơi đào tạo các giáo viên bậc tiểu học, tại đường Đỗ Hữu Vị . C̣n nửa số học sinh ở lại trường nữ trung học Đồng Khánh, gần Hồ Hoàn Kiếm và trường Trưng Vương, (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường trung học Nguyễn Trăi, lấy theo tên của một anh hùng dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tác giả của B́nh Ngô Đại Cáo.

 

Năm học 1950 – 1951, trường trung học Nguyễn Trăi xử dụng cơ sở của trường nữ Trung học Đồng Khánh (Trường Trưng Vương) trên phố Hàng Bài- Hà Nội.

 

Sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, miền Bắc vĩ tuyến 17 thuộc quyền nhà nước Cộng Sản, miền Nam vĩ tuyến 17 thuộc chính quyền quốc gia của đức Quốc trưởng Bảo Đại, do thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đặc mệnh, toàn quyền.

Trường Nguyễn Trăi từ Hà Nội cũng theo đoàn người di cư vào Sàig̣n nhưng không có trường sở riêng để thiết lập lại, đành phải học nhờ tại một trường Nam tiểu học,một mặt giáp với rạp Đại Nam, ba mặt kia nh́n ra ba đường: Nguyễn Thái Học ( trước đó là đường chợ Cầu Muối ) ,Trần Hưng Đạo trước đó là (đường Galliéni) và Hồ Văn Ngà cây cao bóng mát. (Trường này theo tài liệu tên là trường nam tiểu học Trương Minh Kư).

 

Hai năm sau (1956 ) trường Nguyễn Trăi lại di chuyển về học nhờ trường tiểu học Phan Đ́nh Phùng tại số 94, đường Phan Đ́nh Phùng, Sàigon. Sau này, trường đổi tên là Nam Tiểu Học Lê văn Duyệt.

 

Đến năm 1964, một cơ sở mới cho trường Nguyễn Trăi được khởi công xây dựng bên Kho Năm Khánh Hội tại quận Tư, Sàig̣n và trở thành là trường trung học có đệ nhị cấp duy nhất ở quận Tư. Niên khóa 1963-1964, trường Nguyễn Trăi mới này, có lớp đệ nhất đầu tiên nhưng chỉ có ban B (ban toán) thôi. Thầy Tạ Quang Khôi làm hiệu trưởng trường mới .

 

Từ niên học 1971-1972, trường bắt đầu thu nhận thêm nữ sinh và có đủ học sinh đệ nhất và đệ nhị cấp. Đây là trường trung học công lập đầu tiên tại Sàig̣n có nam sinh và nữ sinh học chung Đó là điểm son của trường trung học công lập Nguyễn TrãI.

 

Từ mái trường này, nhiều tên tuổi đă đi vào công chúng như các nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Vơ Tá Hân, Đức Huy…

 

Tôi h́nh như có duyên với trường Nguyễn Trăi. Năm 1963, mới 19 tuổi đang học năm thứ hai trường Đại Học Sư Phạm Sài G̣n, tôi được thầy Tước dẫn đi dạy thực tập 1 giờ toán đầu tiên ở trường trung học Nguyễn Trăi lúc trường c̣n ở Phan Đ́nh Phùng. 14 năm sau, 1977 sau khi đi tù cải tạo về tôi lại về trường Nguyễn Trăi dạy lại khi trường đă ở Khánh Hội, quận 4, Sài G̣n.

 

Cũng cần kể thêm hai trường trung học di cư khác là trường trung học Hồ Ngọc Cẩn và trung học Trần Lục.

 

 

Trường Hồ Ngọc Cẩn (lấy tên vị giám mục địa phận Bùi Chu) được ṭa Giám Mục Bùi Chu cho thành lập từ năm 1950 do limh mục Trần Đức Huynh làm hiệu trưởng và năm 1954 di cư vào Nam, hai năm sau được công lập hóa và lấy cơ sở một trường tiểu học ở Gia Định làm trường sở tồn tại đến 30/4/1975.

 

 

Trường Trần Lục thành lập năm 1950, vị hiệu trưởng đầu tiên là linh mục Trần Văn Kiệm, tại Phát Diệm, di cư vào Nam năm 1954, được công lập hóa , ban đầu tạm trú tại trường tiểu học Đồ Chiểu, Tân Đinh, năm 1971 dời về cư xá sĩ quan Chí Ḥa quận 10 và đổi tên là trường Nguyễn Du,

 

Tài liệu tham khảo:

 

https://ongvove.wordpress.com/2017/06/10/lich-su-truong-chu-van-an/

 

https://saigonthapcam.wordpress.com/2020/07/22/truong-nu-trung-hoc-sai-gon-mot-thoi/

 

https://m.trithucvn.co/van-hoa/nhung-dau-lich-su-cua-truong-nu-sinh-dau-tien-va-duy-nhat-tai-ha-noi.html/amp

 

https://baovecovang2012.wordpress.com/2020/11/10/truong-trung-hoc-21/9/

 

Facebook Công Giáo:Đạo vào Đời

 

flickr.com  manhhai

 

(c̣n tiếp)