Người phế binh già bán vé số ở những quán cà phê quận 4, Sài G̣n
Huỳnh Công Ân
Sau khi về hưu, để tránh cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông ở nơi mệnh danh “xứ lạnh t́nh nồng”: Canada, để hưởng không khí mùa Xuân
trên quê hương và nhứt là để t́m lại những thân t́nh cũ, mỗi năm tôi thường
về VN đôi tháng trước và sau Tết âm lịch.
Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, được gặp lại người thân trong gia đ́nh, từ thằng em út ởtuổi thanh niên nay là ông già 60, đến những đứa cháu chưa sinh ra
nay đă tay bồng tay bế kể từ lúc tôi ra đi, là một niềm vui bất tận. Lại c̣n họp mặt với
bạn bè, đồng nghiệp cũ nay đă đến tuổi “thất thập cỗ lai hy” hay vui chơi với các học tṛ xưa, giờ tóc bạc như tôi cũng đem lại cho tôi sự ấm áp trong
tâm hồn.
Ngoài những lần xuống Trà Vinh hay lên Biên Hoà thăm nơi chốn tôi từng dạy học và từng làm lính chiến, hay đi chơi xa, thường mỗi sáng tôi ngồi ở những quán cà phê ở quận 4, từ những quán có ghế nệm, trong pḥng máy lạnh như Trung Nguyên, Góc, Thư Giản đến những quán ngoài lề đường 41,45, Vĩnh Hội, chung cư B3 ngồi ghế xếp, tán gẩu với các học tṛ cũ trường Nguyễn
Trăi sống quanh đây.
Tại những quán cà phê lề đường đó, tôi thường bị quấy rầy bởi đội quân bán vé số liên tục đến thọc xấp vé số vào người
tôi để mời mua. Tuy bực ḿnh nhưng thông cảm sự khó khăn trong cuộc sống
của họ nên tôi từ chối khéo viện cớ không quen chơi vé số. Việt Nam hiện có 63 tỉnh và thành phố, nơi nào cũng phát hành vé số mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tỉnh cho ra một triệu vé số, thử hỏi số tiêu thụ được bao nhiêu?
Cho là vài chục ngàn vé cho một
tỉnh, như vậy phần chắc, 6 con số của vé trúng giải “đặc biệt” ( độc đắc)
2 tỷ nằm trong hơn 9 trăm ngàn vé không bán được kía, giấc mơ trở thành tỷ phú bằng cách mua vé số chỉ là ảo tưởng.
Nhưng, tôi lại chú ư tới một người bán vé số đặc biệt. Đó là một người tàn tật cụt cả hai chân tới háng, anh lết đi bán vé số trên một miếng cao su cắt từ vỏ xe hơi. Anh nói giọng Quảng, khi tôi hỏi, anh cho biết anh là thương phế binh
trước thuộc sư đoàn 2 bộ binh, bị thương ở Quảng Ngăi.
Tôi cẩn thận hỏi tên các đơn vị trưởng của anh. Anh trả lời đúng,
tôi tặng anh hai triệu mà không lấy tờ vé số nào . Tôi nghĩ dù số tiền ít ỏi đó không đủ
bù đấp cho sự mất mát to lớn của tâm hồn và thể xác
của anh cũng như không giúp anh thoát khỏi cuộc sống cơ cực và nhục nhằn của
một người phế binh của bên “thua cuộc” trong xă hội của bên “thắng cuộc”, nhưng đó là tấm ḷng của một chiến hữu của anh đă may mắn c̣n sống
và c̣n nguyện vẹn sau cuộc chiến.
Sau lần đó, mỗi khi ngồi ở những quán cà phê lề đường
tôi thường cố ư t́m người phế binh đó. Mỗi lần gặp, tôi giúp cho anh một số tiền nhỏ,
tôi thấy ḷng ḿnh thanh thản như trả được một phần món nợ cho anh, cho những
người hy sinh trong cuộc chiến để tôi và nhiều người khác sống an lành ở hậu phương làm những công việc không nguy hiểm cho mạng sống như các anh.
Tôi cũng đă báo cho anh biết việc làm ư nghĩa của nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng: chương tŕnh “Bên nhau đi nốt cuộc đời” để anh đến nhận những món quà Tết
do cộng đồng người Viêt hải ngoại và một số
người có long trong nước gởi đến giúp các anh em thương phế binh VNCH. Gần đây, tôi mừng cho anh khi gặp lại anh thấy anh di chuyển bằng một chiếc xe lăn, chắc do
một tổ chức hay nhà hảo tâm nào tặng cho anh.
Cầu xin cho anh cảm thấy ấm ḷng với những đền ơn, đáp nghĩa dù nhỏ
mhoi của những
người từng ở miền Nam trước
năm 1975.