VÀI D̉NG TIỄN BIỆT MỘT NGƯỜI BẠN
CŨ: NGHIÊM DŨNG
Tôi chỉ biết anh khi cùng
“học tập cải tạo” tại trại Long Khánh sau ngày
30/4/1975 dù rằng chúng tôi cùng
ở quận 4, anh
ở góc Đỗ Thành Nhân và
Lê Văn Linh c̣n tôi
ở gần ngả
tư Đỗ Thanh Nhân và
Tôn Đản chỉ cách nhau vài trăm
thước. Tôi với anh đều
là sĩ quan biệt phái giáo chức.
Anh nhỏ hơn tôi 1 tuổi và mang
cấp bậc thiếu uư c̣n tôi là
trung uư.
Ở Long Khánh chúng
tôi thuộc chung một B (trung đội) gồm toàn giáo chức. B trưởng tên Sơn là một
giáo viên tiểu học, lớn tuổi nhứt trong B.
Nghiêm Dũng có bằng
cữ nhân Việt Hán nên đọc và viết chữ
Hoa rất thành thạo. Tôi vốn thích
văn chương nên thường đọc thơ Đường và nhờ Dũng giải thích những từ Hán Việt nào ḿnh không
hiểu nghĩa.
Ngoài giờ lao động , lúc rảnh rổi chúng tôi thường ngâm nga những
bài thơ của Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Lư Bạch,
Bạch Cư Dị…Trong B có anh Nguyễn
Sỹ, giáo viên người Trung nhờ Dũng diễn nôm bài thơ
tứ tuyệt Tĩnh Dạ Từ của Lư Bạch và
đă dịch thành bài thơ
tiếng nôm không kém các
bản dịch của các nhà
thơ lớn của ta:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(Lư Bạch)
Trước giường ánh
nguyệt lung linh
Trông trên mặt đất như h́nh sương sa
Ngẩng đầu nh́n bóng Hằng Nga
Cúi đầu tưởng nhớ quê nhà
xa xăm
(Nguyễn Sỹ
phỏng dịch)
Những cải tạo viên chúng tôi
lúc đó cảm thấy thấm thía nối ḷng xa quê,
xa vợ, xa con qua bài thơ này.
Ngoài tài văn thơ,
Dũng c̣n là một tay
cờ tướng rất giỏi. Tôi đánh cờ
không hay nhưng nhờ Dũng làm quân sư
nên thường thắng các đối thủ ngang tầm để đem về cho ḿnh
những cục đường tán ngọt lịm ( trong trại
mọi người đều thèm đường v́ thiếu chất ngọt).
Khi chuyển trại về Katum, vợ tôi và
vợ Dũng cùng đi chung
chuyến xe than lên Bổ Túc
thăm chúng tôi. Tôi và
Nghiêm Dũng dùng một cây đ̣n dài
treo các bao đồ tiếp tế ở giữa, chúng tôi ở hai đầu đ̣n gánh về trại.
Năm 1977. Nghiêm Dũng được ra trại trước tôi. Sau khi
được thả
tôi về dạy trường cấp 3 Nguyễn Trăi c̣n Dũng
dù có bằng
cử nhân nhưng chỉ được dạy trường cấp 2 Nguyễn Huệ c̣n vợ Dũng
dạy Nguyễn Trăi.
Khi tôi mở lớp
luyện thi vào lớp 10 Nguyễn Trăi tôi có mời
Dũng phụ trách môn Văn.
Về sau vơ Dũng
mất, Dũng đi thêm bước
nữa. Người
vợ sau của Dũng cũng là cô
giáo.
Dũng có hai người
em trai cùng
cha khác mẹ là Nghiêm Tiến
và Nghiêm Đạt đều là học sinh
Nguyễn Trăi. Nghiêm Đạt là học tṛ
của tôi. Cả hai đều
là kỷ sư điện toán cùng ở Montreal,
Canada với tôi.
Năm 2008, trong chuyến về VN đầu tiên tôi có
nhờ một người bạn chung dẫn đến nhà Dũng và mời
anh ra một
quán nước chuyện tṛ. Sau đó, khi
tôi tổ chức sinh nhật tại khách sạn NW, tôi gọi điện
thoại anh nhiều lần để mời anh tham dự
nhưng không được.
Từ đó, trong những lần về VN tôi không gặp được anh, chỉ theo dơi anh qua facebook
và được biết anh nhờ giỏi chữ Hán nên
đă học thành đông y sĩ. Anh là
y sĩ trưởng
pḥng khám bệnh đông y miễn phí ở Linh Quang Tịnh
Xá. Anh thường
dẫn một phái đoàn đông y đi chữa bệnh nhiều nơi.
Lần về VN này, t́nh cờ một
em học sinh cũ của
tôi ở Nguyễn Trăi có học
cấp 2 ở Nguyễn
Huệ cho biết Nghiêm Dũng đă ra đi cách
đây không lâu làm tôi
bàng hoàng.
Trong cuộc đời, Nghiêm Dũng làm hai nghề
cao quư: thầy giáo để dạy người và thầy thuốc để cứu người. Như vậy, anh đă giúp đời
nhiều gấp đôi tôi. Chắc
chắn ở bên kia thế giới
anh rất thanh thản.
Những ḍng này tôi
viết để nhắc đến thời gian anh với tôi
có nhiều kỷ niệm với nhau dù trong hoàn
cảnh khó khăn, nghiệt ngă. Tôi không
bao giờ quên anh dù
anh không c̣n ở trên cơi đời này.