Mặt Trận
Xuân Lộc
Trận chiến Xuân Lộc là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội anh hùng bị bội phản.
Chuẩn Tướng Lê Minh
Đảo là vị tướng đã cùng với 2 phụ tá: Đại Tá Lê Xuân Mai (Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 18) và Đại Tá BĐQ
Phạm Văn Phúc (Tỉnh Trưởng Long Khánh) chỉ huy phòng tuyến thép Xuân Lộc từ rạng sáng 8/4/75 cho đến khi được lịnh rút quân ngày 21/4/75.
Sau này viết về mặt trận Xuân Lộc (tỉnh Long Khánh) tháng 4/75, người thương cũnh
như kẻ thù VNCH, đều có cùng chung quan điểm khi bày tỏ sự khen ngợi và lòng cảm phục người lính miền Nam. Chính Tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân của Bắc Việt đã hé lộ điều này trong tác phẩm của y
"Đại Thắng Mùa Xuân
75" rằng:
"Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư đoàn 6, 7, 341 của ta phải tiến
công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp
phải sức kháng cự mãnh liệt của Trung Đoàn 43 của địch. Các đơn vị pháo của ta đã sử dụng nhiều
hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ..."
Còn D. Todd, người ký giả Pháp, từng thiên Cộng, đã viết trong "Cruel
April: The Fall of Saigon" như sau:
Tinh thần binh sĩ VNCH tại Xuân Lộc rất cao, hệ thống truyền tin rất tốt.
Các đơn vị Dù và
BĐQ đã đến. Con đường Sàigòn
được khai thông...các sĩ
quan của QLVNCH
đang gọi pháo binh và không yểm rất chính xác, nhanh chóng, tình trạng chiến đấu của họ gần giống
như lúc còn quân đội Mỹ yểm trợ...
Nhưng có lẽ ý nghĩa và cảm động nhất là báo cáo của Tướng X. Smith, Trưởng Phòng Tùy Viên Quân Sự (DAO) lên chức Tham Mưu Trưởng
Liên Quân Mỹ:
Tại chiến
trường Long Khánh rõ ràng QLVNCH
đã chứng tỏ sự
quyết tâm và anh dũng chiếnđấu chống
lại địch quân đông gấp nhiều lần..."
Xuân Lộc là tỉnh lỵ của
tỉnh Long Khánh được TT Diệm thành lập từ năm 1957 bằng cách cắt bớt phần
đất của tỉnh Biên Hòa, mục đích định cư đồng bào Việt, Mường,
Nùng, Thái di cư năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3,457 km2, đất đai phần
lớn là núi thấp, đồi cao, rừng thưa
và đồn điền cao su -- trong kháng chiến là một vị trí chiến lược
quan trọng vì là ngã ba của 2 quốc lộ 1 và 20, cửa ngõ từ miền Trung, miền Cao Nguyên vào
Sàigòn chỉ cách nhau 80 km, do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai ngoài bảo vệ phi trường Biên Hòa và
thủ đô. Xuân Lộc nằm trên đường giao liên giữa chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây Tầm, Cù Mị, Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh Phước
Tuy, con đường mạch máu mà Bắc Việt dùng để nhận tiếp tế bổ sung quân và tiếp liệu bằng đường biển, vì vậy từ lâu Sư
Đoàn 18 BB đã được bố trí tại tỉnh này để ngăn chận.
Để cắt đứt đường rút quân của VNCH từ 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bắc Việt tấn công quận Định Quán do Tiểu Đoàn 2/43 trấn giữ và trong khi giao tranh đẫm máu, không quân VN đã thả lầm 2 trái bom 500 cân Anh vào vị trí của quân ta tại núi Đất, khiến gần
200 người chết và bị thương
trong đó có cả vị tiểu đoàn trưởng làm Định Quán mất ngày 17/3/75.
Để tấn công Long
Khánh, BV đã tung vào chiến trường này Quân Đoàn 4
gồm 3 Sư
Đoàn 6, 7, 341 và các đơn vị có sẵn của Quân Khu 7. Thiếu Tướng CS
Hoàng Cầm là tư lịnh, chính ủy là Thiếu Tướng Hoàng Thế Thiệp. Trận
chiến đẫm máu đã đồng loạt xảy
ra tại 3 phòng tuyến: ngã ba Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc và Gia Rai
(nằm tiếp
cận giữa Bình Tuy và Long
Khánh), lực lượng
ĐPQ+NQ tỉnh và các đơn
vị tăng phái gồm Trung Đoàn 8 (Sư
Đoàn 5), lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên Đoàn 7BĐQ, 2 Tiểu Đoàn Pháo Binh, Liên
Đoàn 81 Biệt Cách Dù và toàn bộ Lữ Đoàn 1 Dù (với các Tiểu Đoàn 1, 2, 8,
9) và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, Sư Đoàn 4 không Quân VN từ phi trường
Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật.
Chiến trường Long Khánh gồm 3 mặt trận
chính: mặt trận ngã ba Dầu Giây do Trung Đoàn 52 BB và một thiết đoàn chiến xa trấn giữ.
Mặt trận múi Chứa Chan, Gia Rai do Liên Đoàn 7 BĐQ và Trung Đoàn 43 BB. Thị Xã Xuân Lộc do Trung Đoàn 43 BB và các Tiểu Đoàn ĐPQ bảo vệ... Bộ tư lệnh hành quân của Tướng Lê Minh Đảo đặt tại
quận đường Xuân Lộc ngã ba Tân Phong-Long Giao được bảo vệ bởi các đơn vị trừ bị của sư đoàn, pháo binh và một thiết đoàn chiến xa.
Thế rồi vào lúc 5g30 ngày
9/4/75, khi vạn vật bắt đầu một ngày mới, chim chóc rời tổ kiếm
ăn, dân chúng dọn hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi xem lễ sớm tại
các nhà thờ, các loa phóng thanh của Ty Thông Tin
Xuân Lộc mở
đầu bằng các bài hát trữ tình thương lính...thì cũng là lúc Bắc Việt nã hàng trăm ngàn loại pháo đủ loại vào thành phố, đa số rớt vào chợ, nhà thờ và các nhà của dân chúng
khiến cho người
dân vô tội chết và bị thương như
rạ, vì trận pháo kích kéo
dài trong 2 tiếng đồng hồ với hơn 3,000 trái đạn, liên tục không dứt, dân chúng chạy đâu để trốn tránh tử thần.
8 giờ...quân Bắc Việt tấn
công vào thành phố nhưng bị chận lại
bởi Trung Đoàn 43 BB và Tiểu Đoàn 3/4 ĐPQ Long Khánh nên phải chém vè sau
khi bỏ lại tại
chỗ 100 tử thi. Nhiều T54 và PT76 bị hạ khắp
nơi bởi các hỏa tiễn M72 và các phản lực cơ A37, F5 của Không Quân.
Ngày 10/4/75, Cộng Quân trở lại tấn
công Xuân Lộc với 2 Sư Đoàn 6, 7 và
các trung đoàn thiết xa, khắp các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố từ tòa thị chính Long Khánh đến sân bay, nơi nào Cộng Quân cũng sử dụng quân số cấp trung
đoàn. Cuộc chiến kéo dài trong nhiều ngày, cả 2 phía giành dựt từng ngôi nhà, phòng tuyến để sống. Không Quân VN
đã yểm trợ tích cực và hữu hiệu cho các đơn vị dưới
đất bằng các phản lực cơ tối
tân F5E, góp phần tiêu diệt số lớn
Cộng Quân. Trung Đoàn 43 BB mặc dù đã bị Cộng Quân cắt ra từng
đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp tục chống
trả mãnh liệt, gây cho
địch nhiều
tổn thất, như Văn Tiến Dũng đã phải xác nhận trong tác phẩm Mùa Xuân Đại Thắng.
Qua đến ngày 4 của cuộc chiến,
Lữ Đoàn 1 Dù gồm các Tiểu Đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu Đoàn Pháo Binh Dù mới từ miền
Trung về, được lịnh tăng cường cho
Xuân Lộc. Tất cả trực thăng của 2 Trung
Đoàn 3, 4 Không Quân gồm hàng
trăm trực thăng bán phản lực HU1B
đã thả hơn 2,000 quân Dù từ Trảng Bom vào trận địa, các pháo đội Dù cũng được trực
thăng Chinook chuyển vận đến Bộ chỉ huy
hành quân Dù đóng kế Bộ tư lịnh Sư
Đoàn 18 BB.
2 Tiểu Đoàn Dù
đầu tiên đã nhảy xuống đồn địch để chiếm
lại Bảo Định, chiếm lại quốc lộ
1, nơi 2 trung đoàn thuộc Công Trường 6 Bắc Việt đang tập trung tấn công Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn 18 BB tại Tân Phong. Một tiểu đoàn Dù khác nhảy xuống chiếm
lại khu vực vườn cây của cố Thống
Tướng Lê Văn Tỵ. Ngoại ra các tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc để giải vây cho các
tiểu đoàn ĐPQ và Bộ Chỉ Huy tiểu khu Long Khánh.
Tại ngã ba Dầu Giây, Cộng Sản Bắc
Việt cũng đồng loạt tấn công Chiến Đoàn 52 BB từ ngày 12/4/75 bằng biển người và
tăng, pháo. Lần lượt các tiền đồn, phòng tuyến của Trung Đoàn 52 BB từ Kiệm Tân về tới ấp Phan Bội Châu trên quốc lộ 20 bị
tràn ngập. Cuộc chiến trở nên ác liệt và đẫm máu đã xảy ra chiều ngày 15/4/75 ngay tại xã Dầu Giây, ngã ba 2 quốc lộ 1-20, giữa Chiến
Đoàn 52 BB (gồm Trung Đoàn 52, Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ, các lực lượng ĐPQ Kiệm Tân, Long Khánh; tổng cộng gom lại 2,000 người) và Binh Đoàn 4 Cộng Sản Bắc Việt (trong đó có sư đoàn tổng trừ bị của Hà Nội 341 vừa từ
Thanh Hóa vào), do Trần Văn Trà vừa thay thế Hoàng Cầm, chỉ huy
đã cho ứng dụng chiến thuật biển
người. Trong trận chiến nướng quân man rợ, tàn bạo và khủng khiếp này của Bắc Việt, 1 người lính VNCH đã phải chọi với 10 binh sĩ Bắc Việt với
tăng và pháo. Chiến Đoàn 52 BB cuối cùng đã tan hàng vào đêm 15/4/75, tất cả pháo binh, thiết giáp, người đều bị CS Bắc Việt
hủy diệt sau mấy ngày đêm
cầm cự. 9
giờ đêm đó, khi chiếc hầm chỉ huy của chiến
đoàn bị bắc sập, đại tá chiến đoàn trưởng mới cho rút quân, theo ông chỉ còn...200 ngươi sống sót.
Trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Phạm Huấn sau ngày 30/4/75, Trung Tướng Nguyễn
Văn Toàn, Tư Lịnh Quân
Đoàn III đã cho biết, sau khi trình Bộ Tổng Tham Mưu,
ông đã ra lịnh cho Không Quân sử dụng 2 trái bom "Daisy Cutter" tại ngã ba Dầu Giây trong đêm 15/4/75, vào vùng tập trung quân của Bắc Việt
ngay khi Chiến Đoàn 52 BB bị tan hàng, gần 10,000 quân Bắc Việt với
chiến xa T54, đại pháo
đang di chuyển trên quốc lộ 20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị hủy diệt toàn bộ.
Qua 12 ngày các chiến đãm máu, tuyến thép Xuân Lộc vẫn đứng vững dù Phan Rang đã thất thủ vào 17/4/75, Phan
Thiết mất
18/4/75, Bình Tuy bỏ ngỏ -- giờ đây Xuân Lộc là vùng giới tuyến của đất nước.
Tin thắng trận của Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn 1 Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Địa Phương Quân, Lôi Hổ và Không Quân tới tấp bay về Sàigòn, như những gáo nước lạnh tạt vào vài bọn nhà báo - nhà văn - ký giả - trí thức ngoại quốc và trong nước đang chờ
đợi xem một màn cụp lạc về
sự sụp đổ của VNCH, khiến họ không còn cách nào để mà bóp méo, xuyên tạc được nữa nên đã thay đổi thái độ và kính phục tinh thần bất
khuất của người chiến sĩ VNCH, bởi vì đây là chiến thắng vĩ đại cuối cùng của Quân Lực này trước khi phải rã ngũ.
10 giờ sáng ngày
20/4/75, lịnh bỏ
Long Khánh được ban hành bởi Tư Lịnh
Sư Đoàn 18 BB. Tất cả lực lượng tại
đây dùng liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Phong, Long Giao
về Phước
Tuy với 3 cánh quân Sư Đoàn 18 BB, tiểu khu Long Khánh + ĐPQ, Lữ Đoàn Dù + Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Trong cuộc rút quân này, Lữ Đoàn Dù bị thiệt thòi và chịu số phận bi đát nhất vì là đơn vị đi đoạn hậu: họ phải chống
trả CSBV, 2 bên còn đang
giao tranh ác liệt tại Bảo Định thì 7 giờ tối ngày 20/4/75 có lịnh rút quân, trong khi các thương binh và tử thi lính VNCH chưa
được di tản. Nhưng tất cả đành phải bỏ lại như năm nào tại Hạ Lào, bởi vì đối với người còn sống, đoạn
đường đầy xác lính
VNCH hơn 4 km trong rừng cao su đen nghịt để ra quốc lộ
1, là các cửa địa ngục phải vượt
qua. Tất cả thảm trạng trên đều là những oan khiên bi thảm của người
lính VNCH mà ít ai biết đến.
9 giờ tối, các tiểu đoàn Dù này mới tới quốc lộ và một hoạt cảnh
cảm động đã diễn ra, tất cả
giáo dân của xóm đạo Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn 2 bên vệ đường để theo chân lính di tản. Thì ra người lính VNCH
trong suốt cuộc
chiến nồi da xáo thịt, luôn luôn là những kẻ giữ nhà, giúp dân
-- tình quân dân thắm thiết chỉ được nhắc tới
trong những lúc cùng khốn, cực nguy...
Mấy chục cây số đường
rừng bị bỏ hoang trên liên tỉnh lộ 2 từ
Tân Phong, đến Đức Thành, Long Lễ và Bà Rịa không phải là chuyện bình thường của một đoàn quân có dân chúng lẫn lộn, bởi vậy ngay trong đêm rút quân 20/4/75, Đại Tá Phạm Văn Phúc và Trung Tá Lê Quang Định, tiểu khu trưởng và tiểu khu phó tiểu khu Long Khánh đã bị tử thương
vì nhiều loạt B40 của CSBV bắn sả vào đoàn quân dân đang di chuyển. Lữ Đoàn 1 Dù rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu Đoàn 3 Pháo
Binh được di chuyển trên đường lộ với
đại đội Trinh Sát Dù, các
tiểu đoàn tác chiến đều mở đường bọc sâu trong rừng.
4 giờ sáng ngày 21/4/75, tại ấp Suối Cá, gần ranh giới Long Khánh - Phước Tuy, Tiểu
Đoàn 3 Dù đã bị 2 tiểu đoàn CSBV phục kích. Pháo đội C và trung
đội trinh sát bảo vệ, hầu hết đều bị thương
vong trước biển người tấn công. Cánh quân đi đầu của Tiểu Đoàn 9 Dù cũng
đụng độ
nặng với CSBV tại thung lũng Gia Rai, dưới chân núi Cam Tiên. Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút quân trên liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn tất, kết quả
tốt đẹp. Sư Đoàn 18 BB
được chỉ định về phòng thủ tuyến phía Đông thủ đô Sàigòn từ tổng kho Long Bình đến kho đạn
thành Tuy Hạ, tiếp cận với các lực lượng của
trường Bộ Binh Thủ Đức, trường Thiết
Giáp và một Lữ Đoàn Dù có trách nhiệm bảo vệ
quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa. Tất cả chiến đấu với giặc
cho tới khi Dương Văn Minh ra lịnh bỏ súng, tan hàng vào lúc 11 giờ 30 mới chấm dứt.
Hồ Đinh
Tiểu Đoàn 1/43,
SĐ18BB