NHỮNG ĐỒNG NGHIỆP VONG NIÊN CỦA TÔI Ở TRƯỜNG NGUYỄN TRĂI

 

Tôi về dạy trường Nguyễn Trăi quận 4, Sài G̣n từ niên khoá 1977-1978 sau 10 năm làm nghề giáoTrà Vinh, Biên Hoà Sài G̣n trước ngày 30/4/1975 hơn 2 năm đihọc tập cải tạosau ngày lịch sử đó.

Nhà trường hội chủ nghĩahoàn toàn khác với nhà trường của chế độ VNCH trước đó tôi từng dạy.

Trước hết danh xưng của những người dạy học chúng tôi. Ngày trước, những người dạy học bậc trung học đại học đều được gọi giáo (professeur), c̣n cấp tiểu học gọi giáo viên (instituteur). Ngày nay, người dạy cấp nào cũng đều gọi giáo viên. Tôi không danh xưng giáo bây giờ dùng cho người dạy cấp nào? Vậy cũnghơi buồncho những người dạy học như tôi.

Thứ hai chuyện lương hướng. Đến tháng 4 năm 1975 tôi giáo trung học đệ nhị cấp thượng hạng hạng 4, chỉ số lương 640 (?). Tôi lănh tháng lương cuối cùng khoảng trên 30 ngàn đồng VNCH không kể tiền thù lao dạy các trường nhiều gấp 3 lần lương trường công của tôi. Bây giờ phải chờ đợi vàobiên chế” (chánh ngạch) mới được lănh 60 đồng.

Thứ ba mỗi lầnlên lớpphải soạngiáo ánđể tŕnh chotổ trưởngchuyên môn trong đó mục đíchyêu cầucủa bài giảng.

Thứ học sinh quyềnđánh giá” ( cho điểm) thầy ḿnh. May học sinh Nguyễn Trăi thời đó học sinh giỏi trước đó phải đậu vào lớp 6 vẫn c̣n giữ truyền thống tôn , trọng đạo nên t́nh thầy tṛ vẫn tốt đẹp măi đến bây giờ ( hơn 40 năm sau).

Thứ năm ngoài giờ dạy, thầy giáo phải làm lao động: vệ sinh trường sở, đào kinh, đấp đất theo yêu cẩu của địa phương. Anh hiệu phó lao động Phạm Văn Mạnhthu nhậntôi vào ban lao động của trường. Từ đó tôi thường cùng học tṛ quét sân, khiên gạch, tát vũngtrong khuôn viên nhà trường.

Cuối cùng, nhà trường c̣n những hoạt động kinh tế như: xưỡng may do anh Nguyễn Văn Cẩm phụ trách, ban đời sống lo mua nhu yếu phẩm : muối, đường, bột ngọt, thịt heo, thuốc , vải vócphân phối định kỳ cho mọi người.

Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục”, rồi th́ tôi cũng quen với sinh hoạt của nhà trường mới. Tôi dạyNguyễn Trăi qua hai đời hiệu trưởng: anh Hải chị Mai. Cả hai đều giáo viên chi viện, đều người miền Nam tập kết trở về.

Độ hai ba năm sau, một đợtgiáo viêntrẻ mới ra trường về trường Nguyễn Trăi. Trong số đó ba người nhiều kỷ niệm với tôi.

Người thứ nhứt Trần Xuân Hải dạy . Gia đ́nh của Hải bên vợ của Hải cùngđường Nguyễn Trường Tộ với gia đ́nh bên vợ tôi trong thập niên 60, hồi nhỏ Hải lại bạn của em tôi. Hải thường ghé nhà tôi chơi uống bia với tôi sau khitrường về. Thỉnh thoảng tôi Hải đến cửa hàng ăn uống số 1 trên đường Tŕnh Minh Thế uống bia hơi.
Sau hơn hai mươi năm sốngnước ngoài, từ 2008 tôi về Việt Nam thường xuyên hỏi thăm tin tức về Hải nhưng tất cả đều mờ. Măi đến năm ngoái một em cựu học sinh Nguyễn Trăi qua mạng hội Facebook cho tôi thông tin chính xác về Hải tôi mới liên lạc được với Hải.

Người thứ hai Nguyễn Mạnh Chí cũng dạy . Khi tôi mở quán ănđường Tôn Đản, biết Chí hoa tay tôi nhờ Chí cắt chữ dán lên banderole đề bảng hiệu cho quán tôi.

Người thứ ba Trần Duy Thành dạy văn, thường cùng tôi tham dự những cuộc họp mặt của các em cựu học sinh lớp 12 D8 trong những năm gần đây. Thành từng định Mỹ nhưng chọn trở về sốngViệt Nam. Mới đây, Thành cho xuất bản một số tác phẩm văn chương của ḿnh ra công chúng.

Khi tôi ra nước ngoài, các đồng nghiệp trẻ này thầy dạy con trai tôi những đứa con của các em tôi. Khi sang đoàn tụ với tôi ở Canada, con trai tôi thường kể rằng năm con tôi học với thầy Hải, mơi khi điểm danh thầy không bao giờ gọi tên con tôi, khi hỏi thầy tại sao không gọi tên th́ Hải nói khỏi cần gọi biết em con thầy Huỳnh Công Án .

Những đồng nghiệp trẻ của tôi kể trên cũng như nhiều thầy trẻ khác trong thời kỳ nghề giáo nghề nghèo nhứt trong hội vẫn hoàn thành thiên chức cao đẹp của ḿnh: truyền thụ kiến thức cho thế hệ sau. Xin ngă thán phục những đồng nghiệp vong niên của tôi.

 Sài G̣n ngày 6/1/2023