DIỆN MẠO THÀNH PHỐ SÀI G̉N
THỜI VNCH
Nếu trước 1954
thành phố Hà Nội được mệnh danh là nơi “
ngàn năm văn vật” th́ trong khoảng thời gian
1954-1975 Sài G̣n xứng đáng với danh hiệu “Ḥn
Ngọc Viễn Đông”.
Thật vậy Sài G̣n trong
suốt 21 năm dưới chế độ tự do
đă phát triển không ngừng về mọi mặt dù là
hậu phương của một miền Nam
đương đầu với âm mưu xâm chiếm
bằng vơ lực của miền Bắc.
Từ một thuộc
địa do người Pháp cai trị miền Nam đúng
ra lúc đó là Nam Kỳ mà tên tiếng Pháp là Cochinchine
đứng đầu là một viên thống đốc
người Pháp, sau được trả lại cho
Quốc Gia Việt Nam dưới thời Quốc
Trưởng Bảo Đại. Ngày 23/9 năm 1945, thực
dân Pháp theo chân liên quân Anh-Ấn có nhiệm vụ giải
giới quân Nhật ở Đông Dương Đông
chiếm Sài G̣n để tái lập chế độ
thuộc địa ở Việt Nam và gây ra cuộc
chiến Đông Dương lần thứ nhứt.
Ngày 20/7/1954, sau khi Quân Pháp
thất trận ở Điện Biên Phủ th́ hiệp
định Genève ra đời chia đất nước
Việt Nam làm đôi, miền Bắc theo chế độ
cộng sản, miền Nam theo chế đọ tự do.
Ranh giới hai miền là ḍng sông Bến Hải ở
vỹ tuyến 17.
Từ năm 1955, miền
Nam trở thành nước Việt Nam Cộng Hoà, tổng
thống đầu tiên là ông Ngô Đ́nh Diệm và thủ
đô là Sài G̣n. Đến năm 1967, tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu được bầu là
người lănh đạo nền đệ nhị
Cộng Hoà.
Trong suốt hai nền
cộng hoà, dù trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng ai
cũng trông thấy rơ sự thịnh vượng của
miền Nam tự do về mọi lănh vực hơn hẵn
miền Bắc nghèo đói và lạc hậu dưới
chế độ độc tài cộng sản.
Về mặt kinh tế,
chính phủ Việt Nam Cộng ḥa thành lập các khu kỹ
nghệ để tạo thuận lợi cho đầu
tư vào lĩnh vực chế tạo. Cụ thể, Khu
kỹ nghệ Biên Ḥa được thành lập vào tháng 5
năm 1963, và Công ty Quốc gia Khuếch trương Khu
Kỹ nghệ (SONADEZI - Société nationale du Dévelopment des
zones industrielles) được thành lập vào tháng 12
năm 1963 để quản lư và phát triển các khu công
nghiệp, Khu kỹ nghệ Phong Dinh (Cần Thơ ngày nay)
được thành lập vào năm 1967, và Khu kỹ
nghệ An Ḥa - Nông Sơn (Quảng Ngăi) được thành
lập từ trước đó. Từ 1957 trở đi
nhờ lượng vốn đầu tư tăng vọt
bao gồm viện trợ của Mỹ, tiền bồi
thường chiến tranh của Nhật, vốn của
giới tư sản công thương nghiệp di cư
từ miền Bắc nên công nghiệp Việt Nam Cộng
ḥa phát triển mạnh. Kết quả phải kể
đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam:
nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên Ḥa, thỏa măn
30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy tại miền Nam; hai
xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất
13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh
Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi
măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ
Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi
năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành
năm 1961.
Về mặt nông
nghiệp, thời Đệ Nhất Cộng Hoà, kế
hoạchl"Cải cách điền địa
được triển khai từ năm 1955 và kéo dài
tới cuối năm 1960. Những ruộng đất
của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu
hồi và cấp cho tá điền. Ngày 26 tháng 3 năm 1970
chương tŕnh của tổng thống
Thiệu"Người cày có ruộng" bắt
đầu đă chia gần một triệu mẫu
ruộng cho nông dân không phải trả tiền. Chính phủ
bán công khố phiếu lấy tiền mua lại ruộng
đất của điền chủ rồi chia cho nông dân.
Người nào có quá 15 mẫu phải bán đất c̣n
lại. Đang từ tá điền, bốn triệu nông
dân trở thành điền chủ.
Song song với chính sách kinh
tế do nhà nước để ra, kinh tế tư nhân
cũng nở rộ: hăng pin Con Ó, hăng bột giặt Víso ,
hăng bột ngọt Vifon, kem đánh răng Hynos, Perlon,
xưỡng xe hơi La Dalat, xe đạp Lucia, dược
phẩm Trang Hai…đáp ứng phần nào nhu cầu tiêu
thụ của người dân trong nước, ngoài những
sản phẩm ngoại nhập cần thiết.
Về mặt tài chánh, ngoài
ngân hàng Quốc Gia của chính phủ, Kỷ Thương
Ngân Hàng của quân đội, các ngân hàng tư nhân lần
lượt ra đời: Tín Nghĩa Ngân Hàng, Nam Việt
Ngân Hàng…
Với một nền giáo
dục theo phương châm: dân tộc, nhân bản và khai
phóng, miền Nam đào tạo con người Việt Nam có
tri thức đi đôi với đạo đức.
Từ một chế độ giáo dục thuộc
địa áp đặt theo chương tŕnh của
mẫu quốc Pháp, dần dần tiếng Việt thay
thế tiếng Pháp từ bậc tiểu học lên đến
bậc đại học. Bằng cấp ở Việt Nam
Cộng Hoà được công nhận ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới.
Theo chân đoàn người
di cư, các trường học danh tiếng miền
Bắc được chuyển vào Nam như Viện
đại học Hà Nội, các trường trung học
Chu Văn An, Nguyễn Trăi, Trưng Vương, Trần
Lục…với luôn cả thành phần giảng huấn.
Hệ thống giáo dục miền Nam được
tăng cường những nhân tố ưu việt
đến từ miền Bắc bên cạnh những cơ
sở và nhân lực sẵn có lâu đời của các
trường Pétrus Kư, Gia Long, Jean Jacques Rousseau, Marie Curie,
Nguyễn Đ́nh Chiểu, Phan Thanh Giản…Các thầy
dạy học của tôi từ thời trung học
đến đại học đa số là người
Bắc di cư.
Bên cạnh các trường
công lập, miền Nam c̣n có rất nhiều trường
tư thục để đáp ứng số học sinh gia
tăng hàng năm.
Xă hội miền Nam trong
thời kỳ chưa bị miền Bắc chiếm
đóng văn minh không thua kém các nước phương
Tây. Cách sống của người dân, dặc biệt
ở Sài G̣n rất lịch sự , quư phái từ cách ăn
mặc đến lời ăn tiếng nói. Khi ra
đường quư ông mặc quần dài, áo sơ mi bỏ
trong quần, chân mang giày. Phụ nữ mặc áo dài tha
thướt. Họ chào nhau thưa ông, thưa bà, thưa cô
khi chưa quen biết chớ không gọi là anh, chị, em
một cách sổ sàng như ngày nay. Tôi c̣n nhớ khi tôi ra
trường về dạy tại trung học Vĩnh B́nh,
Trà Vinh, bác hai Dậu là tổng giám thị kiêm phát ngân viên
của trường lúc đó tuỏi đă 50 trong khi tôi
chỉ mới 21 nhưng lúc nào bác cũng gọi tôi bằng
ông giáo sư dù tôi gọi ông bằng bác và xưng con.
Văn hoá, nghệ thuật
dưới chế độ tự do miền Nam phát
triển và thăng hoa mà không ai phủ nhận thực
tế đây là thời kỳ huy hoàng nhứt của lănh
vực này trong suốt chiều dài lịch sử của
Việt Nam.
Là nơi xuất hiện
những tờ báo đầu tiên như Gia Định Báo,
Lục Tỉnh Tân Văn… từ thời đầu Pháp
thuộc, miền Nam dưới chế độ Cộng
Hoà báo chí tư nhân được tự do xuất bản
thể hiện đúng ư nghĩa đệ tứ quyền
bên cạnh các quyèn hành pháp, lập pháp và tư pháp. Mọi
người không quên những trang báo tố cáo vụ buôn
lậu c̣i hụ Long An (nói là do bà Thiệu tổ chức?),
những bức tranh biếm hoạ của họa sĩ
Ớt (cộng sản nằm vùng)… cho thấy một
nền tự do báo chí mà công sản nhân đó lợi
dụng đánh phá chính quyền miền Nam.
Về văn chương,
những nhà văn, nhà thơ đến từ miền
Bắc dù đă thành danh ngoài đó hay sau này trong Nam đă làm
tăng thêm số người viết văn, làm thơ
ở miền Nam để cho ra đời những tác
phẩm có giá trị lâu dài.
Trong lănh vực âm nhạc
cũng vậy. Ngoài những nhạc sĩ miền Nam
như Lam Phương, Thanh Sơn, Lê Dinh, Khánh Băng,
Trần Thiện Thanh, Trúc Phương, Vinh Sử…những
nhạc sĩ đến từ miền Bắc như
Phạm Duy, Phạm Đ́nh Chương, Văn Phụng,
Ngô Thuỵ Miên…đă sáng tác những nhạc phẩm
để đời. Đi cùng với những bản
nhạc bất tử đó tên tuổi của những danh
ca miền Nam được mọi người nhắc
nhở tới dù hơn nửa thế kỷ đă trôi qua.
Có người hiện nay vẫn c̣n đứng trên sân
khấu dù tuổi đă qua ngưỡng “ thất thập
cỗ lai hi”.
Về địa hạt
điện ảnh, những tài tử và minh tinh như La
Thoại Tân, Ngọc phu, Vân Hùng, Hùng Cường, Trần
Quang… cũng như Thẩm Thuư Hằng, Kiều Chinh, Kim
Cương, Thanh Nga…vẫn sống măi trong ḷng người
miền Nam yêu thích nghệ thuật thứ bảy.
Cũng cần phải nói
đến cải lương, một thứ nghệ
thuật độc quyền của miền Nam đă
trải qua một thời hoàng kim măi đến năm 1975.
Đào kép cải lương lúc bấy giờ là những
viên ngọc quư mà các ông bà bầu cải lương
phải bỏ bạc triệu để “bắt” về
đoàn minh. Đó là những Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thành
Được, Thanh Nga, Thanh Sang, Minh Cảnh, Minh
Vương, Lệ Thuỷ, Mỹ Châu…
Một miền Nam phồn
thịnh, văn minh được tiếp sức bằng
những tinh hoa đến từ miền Bắc
đặc biệt là từ Hà Nội qua cuộc di cư
năm 1954 đă phản ánh qua bộ mặt của thành
phố Sài G̣n trước ngày 30/4/1875.
Ngày nay, nh́n những thay
đổi của thành phố Sài G̣n dưới chính
quyền cộng sản trong chiều hướng đi
xuống về mọi mặt dù h́nh ảnh những cao
ốc dễ đánh lừa nhận xét của một
số người hời hợt, đa số chúng ta
đều thấy tiếc rẻ cho một thành phố mà
ngày trước thủ tướng Lư Quang Diệu của
Singapore từng mơ ước đất nước ông
cũng được như vậy.
Chúng ta chỉ đành:
“Tiếc thay cây quế
giữa rừng
“Để cho thằng Mán,
thằng Mường nó leo”
Montreal ngày 22/9/2022
Huỳnh Công Ân