ĐÊM GIÁP NƯỚC
Huỳnh Công Ân
Hôm nay là ngày thứ 16 của chiến
dịch. Chúng tôi đã ở Nha Mân hết 11 ngày để yểm trợ việc xây đồn Ngã Ba, ở Xẻo Mát 3 ngày để lục soát một vùng bị bom B52 cày nát và ở đây đến bao giờ không biết cũng để yểm trợ
địa phương quân cất lại đồn Giáp Nước vừa chiếm lại được
sau một năm lọt vào tay Việt Cộng. Chúng tôi đã 5 lần đổ bộ bằng trực thăng và hàng chục lần lội đi lục soát và xua đuổi V.C. ra xa chỗ
xây đồn. Hai bộ trây -di tôi mang theo đã rách nát vì nước bùn khi mặc vào trông như ăn mày. Râu tóc ra dài như Lỗ Bỉnh Sơn. Bọn lính của tôi cũng không hơn gì. Có đứa chỉ còn cái quần đùi.
Em! Giờ này chắc em đang trên đường về nhà sau buổi học chiều. Em nói cười ríu rít như tiếng hót của những con chim sơn ca trên những cành me dọc theo con đường đẹp
nhứt của thành phố Trà Vinh. Em nghĩ đến ngày mai em lại cắp sách đến trường vui bên thầy, bên bạn. Ôi ngày mai của em êm đẹp và trong sáng như những buổi chiều
chưa tắt nắng ở Đầu Bờ. Còn ngày mai của anh đen tối như đêm trừ tịch. Giữa lòng đất địch, trong nanh vuốt tử
thần đang rình rập đâu đây, nghĩ đến ngày mai là một việc xa vời em ạ.
Đại Bàng đã phân chia chỗ đóng quân xong. Trung đội tôi án ngữ một phần
bờ sông đối diện với một vườn cây rậm rạp bên kia. Trách nhiệm thật nặng
nề, lại còn phải cho một tiểu đội qua bên sông làm tiền đồn nữa. Tôi và trung sĩ Long đôn đốc cho lính đào hầm kỹ lưỡng. Tôi bảo Long:” Ở mặt này mình không sợ bị tấn công, chỉ ngại pháo kích.” Tôi cho lính phát quang xạ trường, còn Long tập hợp các tiểu đội trưởng chia gác. Sắp đặt xong các công việc, tôi xuống mé sông tắm rửa và thay một bộ đồ khô. Thằng đệ tử và thằng mang máy lui cui nhóm lửa nấu cơm
chiều. Mùi thơm bốc lên từ mấy
con tôm nướng mà thằng đệ
tử ban trưa mò được dưới sông làm tôi chợt nhớ đến những bữa ăn với
Sa ở Tri Tân.
Em! Những bữa cơm đạm bạc
nhưng đậm đà ân tình mà chính tay em
nấu nướng cho anh sau những ngày hành quân vất vã bao giờ cũng để lại những
dư vị nồng nàn trong hồn anh. Suốt khoảng đời chinh chiến, có lẽ những giây phút sung sướng nhứt là lúc ngồi bên em được em âu yếm gấp bỏ vào chén anh từng con tép rang-xứ Trà Vinh từ xưa đến nay vẫn có tiếng nhiều tôm, tép- Ôi tình yêu chất phác của một cô con gái nhỏ tỉnh lẻ soi sáng lòng tôi như hỏa châu trong đêm tối chiến trường.
Một tiếng ầm vang lên ở phía đồn và tiếp theo là những tiếng nổ khác. V.C. đang pháo kích bằng súng cối 60 ly vào đồn nhưng tất cả đạn
đều rơi xuống sông làm nước bắn tung toé trông đẹp mắt. Để ý tiếng départ, tôi đoán chừng vị trí đặt súng cối của V.C.
ở chỗ đóng quân đêm qua của chúng tôi, nghĩa là cách đồn vào khoảng 500 thước
nhưng có tới hai con sông chắn ngang. Vì trời sắp tối nên cả bên đồn cũng như bên chúng tôi đều không có lệnh truy kích. Duy khẩu 4-2 trong đồn phản pháo trả đủa. Những tiếng nổ
xé trời của khẩu súng cối cực lớn này nghe giống như tiếng nổ của
đại bác 105 ly. Tôi lẩm bẩm:”Bọn chúng báo hiệu sẽ tấn công bọn mình đêm nay”.
Tiếng súng đã im. Chúng tôi tiếp tục bữa
cơm chiều. Sau một ngày lội ruộng nhọc nhằn, chỉ với một bọc
cơm sấy, vài con tôm nướng mà tôi ăn thấy ngon miệng. Dùng cơm xong, chúng
tôi tráng miệng bằng bánh ngọt và nước trà. Những thứ nảy cả cà phê và đường nữa, tôi vừa gởi mua ngoài chợ trong chuyến liên lạc hồi sáng. Tối nói với trung sĩ Long:” kể ra giữa
chốn hoang dã này bọn mình vẫn sống phong lưu: sáng cà phê, chiều nước trà, bánh ngọt. Như vậy dù ngày mai có ra sao mình cũng không ân hận phải không cậu?” Gã trung đội phó-có gương mặt dữ tợn với hàm răng hô và bộ râu quai nón rậm nhưng thật ra rất hiền
lành- gật gù ra chiều tán đồng câu nói của tôi.
Bây giờ nắng đã tắt hẳn sau rặng tre phía Tây. Đại Bàng (Tiểu đoàn trưởng) và lão thiếu tá cố vấn đi quan sát vị trí phòng thủ của các đại đội. Đại Bàng giới thiệu với lão cố vấn tôi là một giáo chức sắp biệt phái về dạy học lại. Lão cố vấn cười nói:” Thế là anh sắp được đứng ngoài cuộc chiến rồi đó.” Lão chỉ một cái hầm không có lỗ châu mai hỏi tôi lính đào hầm như vậy
làm sao tác xạ được. Tôi giải thích rằng họ ngồi ló đầu trên miệng hầm và tì súng trên nấp hầm để bắn. Lão lắc đầu nói:” Tôi chưa thầy kiểu hầm
này bao giờ.” Tôi thầm nghĩ:” Còn nhiều cái lạ khác trong cuộc chiến này mà ông sẽ phải gặp”.
Đại Bàng dặn dò tôi cẩn thận vì chắc chăn đêm nay địch sẽ đánh rồi ông cùng lão thiếu tá cố vấn đi sang phòng tuyến trung đội khác. Tôi gọi hạ sĩ nhứt Ken chuẩn
bị dắt tiểu đội của y qua sông nằm tiền đồn. Tôi chỉ rõ vị trí cho y và không quên dặn y không được đóng trong căn nhà bên kia sông mà phải nằm ở ngoài, mỗi người ở một góc cây. Tôi dặn y nếu địch ít thì thanh toán, nếu địch
đông thì lặng lẽ qua sông rút về. Khi đám tiền đồn trên đường qua bên sông tôi bảo thằng mang máy báo cáo cho Thẩm Quyền ( đại đội trưởng ) biết
vị trí của đám “ăn sương” (tiền đồn)
để tránh việc tác xạ lầm. Tôi lấy làm yên bụng vì nghe Thẩm Quyền cho biết bên cạnh đám tiền đồn của tôi còn có trung đội thám báo của tiểu đoàn.
Trời đã sụp tối. Tôi ra lệnh tắt tất cả lửa
và hút thuốc phải ngụy trang. Tên lính gác phiên đầu đã ra ngoài vọng. Tôi ngã mình trên chiếc võng cạnh thằng đệ tử và vói tay vặn nhỏ chiếc radio treo ở
đầu võng. Tiếng hát Khánh Ly trong một ca khúc của Trịnh Công Sơn văng vẵng như tiếng
khóc của người tình trong buổi chia tay.
Em! Làm sao anh quên được buổi sáng hôm nào em tiễn anh vào Quân vụ Thị trấn để anh thật sự xa em dấn
thân vào cuộc chiến. Hôm đó em đã khóc nhiều, anh lấy
khăn tay ra lau nước mắt cho em. Và thốt lên những lời an ủi:”Thôi em đừng khóc nữa, âu đó cũng là phần số của
anh”. Đêm nay, trong khi anh cuộn mình trong chiếc võng mỏng manh không đủ chống lại cái lạnh lẽo của thời tiết
cuối đông thì có lẽ em còn đang ngồi học bài dưới đèn khuya. Đối với anh, hình ảnh đó là đẹp nhứt. Chúng ta chưa có gì với nhau nên em chưa là chính phụ chông đèn ngồi bên song cửa hằng đêm chờ chinh phu trở lại. Em còn trẻ quá, những xúc động ban đầu dễ quên đi và hình ảnh buổi tiễn
đưa chỉ còn là một kỷ niệm. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Làm sao anh bắt em phải giữ mãi hình bóng anh trong tim em khi khói lửa chiến chinh vẫn còn mù mịt và ngày về của anh quả thật xa vời.
Và cho dù anh có về đi nữa thì chắc gì anh còn nguyên vẹn như lúc ra đi.
Tiếng ngáy của thằng đệ tử nghe
rất rõ bên kia và một giọng nói cất lên ở máy:”Phương Dung 1, đây Phương Dung, tối nay lệnh Bắc bình đống đa (báo động) thường lệ từ 12
giờ đến 1 giờ, nghe rõ trả lời.” Thằng máy vẫn ngủ ngon lành. Tôi bực mình văng tục:” Đ.M. bảo trực máy mà ngủ rồi.” Tôi chồm người xuống với
tay nhấc ống liên hợp:”Phương Dung, đây Phương Dung 1, tôi nhận được
5 trên 5”. Bên kia:” Thôi xuống máy đi.” Tôi tắt máy, đứng dậy ra phía vọng gác dặn lính đương phiên chuyền miệng giờ báo động cho những người sau.
Nửa đêm thằng đệ
tử lay tôi dậy:”Tới
giờ báo động rồi thiếu uý”. Tôi gọi thằng truyền tin dậy mở máy đoạn xách gậy đi một vòng kiểm soát. Tiêu lệnh trong giờ báo động thường lệ là mọi người phải thức
giấc, súng đạn sẵn sàng ra hố cá nhân. Thế mà cũng có đứa nằm ngủ yên đợi đến khi bị đập vào mông mới chịu ngồi lên. Tôi ra mé sông quan sát phía bên kia. Tôi không thấy gì cả chỉ nghe tiếng
sóng nước lách tách. Tôi bảo thầm:” Bọn tiền đồn
chắc không đứa nào dám ngủ”. Tôi trở lại võng ngồi. Thằng máy báo cáo cho tôi những gì nó nhận được ở ban chỉ
huy. Bọn thám báo cho hay có nghe tiếng chân nhiều người
bên sông. Thẩm Quyền dặn tất cả
mọi người trong đại đội rán thức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Trong lòng tôi nẩy sinh lo âu. Hai đêm trước, cũng vào giờ báo động nửa đêm chúng tôi nghe tiếng cú kêu mà rợn tóc gáy. Đêm nay, tuy không có tiếng cú nhưng tin “V.C.” Về làm mọi người
không khỏi phập phồng. Nhưng suốt
một giờ đồng hồ không có gì xảy ra nên chúng tôi được lệnh dứt
báo động. Tôi trở ra vọng gác dặn đi dặn lại thằng
gác phải quan sát kỹ lưỡng, rán đừng ngủ gục rồi mới
yên tâm cho lệnh mọi người tiếp tục
nghỉ ngơi.
Tôi giựt mình thức giấc vì một tiếng lựu đạn nổ
và tiếp theo là nhiều tiếng súng A.K. xen lẫn tiếng súng M.16. Theo phản ứng thường
lệ, tôi chụp lấy cái nón sắt, rút khẩu col ra khỏi vỏ và hô:”Ra hố mau”, đồng thời chạy
ngay ra hố. Thằng đệ tử xách cây súng trường và thằng ôm máy C.10 khom người chạy theo.
Khi ba thầy trò ra tới hố ,
tôi bốc ống liên hợp lên liên lạc với đại đội
trưởng. Tiếng Thẩm Quyền ở đầu dây bên kia trầm tĩnh cho hay V.C. đã về và đang đụng độ với
đám tiền đồn.
Tôi gọi sang hạ sĩ I Ken hỏi chúng về đông không. Ken đáp không rõ nhưng bọn y đã băn gục mấy tên. Tôi lại hỏi bên mình có sao không. Y
đáp bình yên. Tôi dặn coi chừng bị
lộ mục tiêu chúng hốt hết. Đám tiền đồn sử dụng lựu đạn nhiều
hơn súng. Những tiếng
nổ kinh hồn do nhưng quả B.40 chạm vào cây làm điếc tai chúng tôi. Những lằn đạn đan nhau
trên không trung trông đẹp mắt. Có vài trái B.40 rơi xuống sông.
Bỗng tôi thấy nóng rát ở vai và bụng và cảm thấy như có ai nhấc bổng mình lên quăng xuống hố. Tôi ngất đi sau khi mơ hồ nghe một
tiếng nổ lớn sau lưng. Tôi tỉnh dậy ngay sau đó và biết mình đã bị thương. Tôi lấy tay sờ vào bụng và vai thì cảm thấy ươn ướt.
Đúng là máu. Sờ tiếp đầu, mặt, tay và chân tôi không thấy gì cả. Tôi tự nhủ có lẽ không đến nỗi nào. Bây giờ tôi mới nhớ ra khẩu súng và đôi dép đã văng đâu mất.
Tôi cố định
tỉnh tỉnh thần để xem còn ai bị thiệt hại gì không. Tiếng la hét của thằng Nghiệp mang máy và tiếng rên la của thằng Ê, xạ thủ M. 79 làm tôi chú ý hơn hết. Thăng Nghiệp
kêu:” Thiếu uý đâu rồi, em bị thương chắc
chết thiếu uý ơi.” Tôi hỏi:”Mày bị thương
ở đâu?”. “Em bị ở mặt hu...hu...hu “. Tôi nói:”Để tao bật lửa lên xem vết thương mày ra sao”. Tôi đánh diêm xem xét thấy nó chỉ bị trầy
trịa sơ ở mặt không có gì nặng lắm. Tôi thừa biết tính nó rất nhát nên an ủi:”Mày không sao, im đi kẻo bọn chúng nghe tiếng la bắn thêm qua bên đây nữa!”. Nghiệp nhìn tôi:” Thiếu uý cũng bị thương nữa?”. Tôi thấy máu ở vai và bụng đã thấm ướt áo. Tôi dơ que diêm trong hầm tìm khẩu súng. Xong tôi quay đàng sau hỏi: “ Ê ơi , mày có sao không?”. Thằng Ê không trả lời chỉ rên. Tiếng Long đáp thay:”Nó bị nặng nhứt vì không chịu xuống hầm, còn tôi cũng bị thương ở
tay nữa thiếu uý”.
Tôi gọi máy về đại đội xin y tá. Đoạn tôi gọi thằng Bảy đến thế
thằng Nghiệp lo cái máy C.10. Một lát sau y tá chạy xuống băng bó cho mọi người. Tôi hỏi nó về tình trạng thằng Ê. Y tá lắc đầu:”Nặng lắm chắc
không qua khỏi, còn thiếu uý chỉ bị hai miểng ở vai và bụng không sao”. Tôi gắng gượng ngồi lên miệng hầm hô hào bọn lính giữ vững phòng tuyến. Bây giờ tôi mới nhớ đến thằng
đệ tử. Không biết nó ở đâu mà nãy giờ không thấy lên tiếng, e rằng nó chết mất. Tôi gọi khẽ trên nó mà không nghe nó trả lời. Thằng
Ê đang chống chọi với tử thần
bằng những tiếng rên la thật lớn. Tôi bảo y tá kéo nó vào giữa kẻo bọn V.C. Nhận ra vị trí mà bắn sang. Nhưng muộn rồi, tôi nghe một tiếng “tốc” rồi tiếng
thằng Nghiệp la:” Tụi nó départ, nhào xuống hầm thiếu
uý”. Tôi thụt xuống kịp nghe tiếng ầm
phía sau lưng và tiếp theo là nhiều tiếng nổ khác.
Đột nhiên tôi nghe có tiếng động dưới
sông. Tôi vội vàng ngồi lên miệng hầm quát:”Ai?”. Tiếng hạ sĩ I Ken từ dưới
sông vọng lên:” Tụi tui tiền đồn đây, thiếu uý.” Có lẽ bọn chúng về đông nên đám hạ sĩ I Ken phải
lội sông rút về. Tôi bảo họ
chia ra bố trí ở các hầm. Đoạn tôi thông báo cho Thẩm Quyền biết
tiền đồn đã về. Bọn thám báo của tiểu đoàn cũng đã rút
về trước. Thế là phóng lựu M.79, súng cối bên chúng tôi thi nhau nã qua sông cùng một lúc với đại
bác yểm trợ của pháo binh diện địa. Khi đại bác im tiếng thì đến phiên các phi tuần trực thăng oanh kích dữ dội đám tàn quân V.C. đang rút lần ra xa.
Trời dần dần sáng rõ, tiếng súng thưa lần rồi im hẵn. Thẩm Quyền gọi máy bảo tôi tập trung đám bị thương đem lại phía sau đại đội chỉ huy chờ
trực thăng tới tải thương. Tôi kiểm điểm thấy trung đội
mình bị thương 5 người: tôi, trung đội phó Long, thằng mang máy, thằng Ê và thằng đệ tử của tôi nữa. Hồi khuya, khi biết bị
thương, thằng đệ tử hoảng sợ bò tuốt ra sau trốn trong một buội
rậm nên không nghe tôi kêu. Đợt pháo kích sau làm Đại Bàng và vài người trong bộ chỉ huy tiểu đoàn bị thương. Thắng Mười
dìu tôi ra bãi đáp trực thăng. Tôi cảm thấy ê ẩm ở bụng và vai.
Tiếng reo hò bên kia sông của bọn lính đi lục soát tìm thấy chiến lợi phẩm vang lên đồng thời với tiếng máy bay trực thăng tải thương kêu lạch tạch đâu đây. Những âm thanh đó không cắt đứt
được dòng cảm nghĩ của tôi: “Không biết Sa có hay tin mình bị thương để đến bệnh viện
Phan Thanh Giản thăm mình không?”.
(Tuần báo Khởi Hành, số 66,
năm 1970)