CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC Ở MIỀN NAM TRƯỚC 1975
Huỳnh
Công Ân
Với tôn
chỉ Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng, nền giáo dục
Việt Nam Cộng Hoà trong 21 năm tồn tại đă
đào tạo những công dân Việt Nam hoàn thiện
cả hai mặt đạo đức và tri thức và
họ trở thành rường cột cho một
đất nước tự do và dân chủ với một
nền kinh tế phát triền. Rất tiếc, một
nửa nước ở miền Bắc bị đắm
ch́m trong một ư thức hệ cộng sản không
tưởng đă dùng súng đạn của Nga, Tàu
để cưỡng chiếm miền Nam làm cả
nước thụt lùi so với các lân bang.
Trong loạt bài
trước tôi đă tham khảo các tài liệu để
giới thiệu các trường trung học tiêu biểu
của miền Nam trước 1975. Với loạt bài này
tôi muốn tŕnh bày lịch sử cũng như hoạt
động của các trường đại học
ở miền Nam trước 1975 dựa vào những bài biên
khảo của nhiều tác giả mà cũng như tôi
đă ghi lại để hoài niệm về một
nền giáo dục đại học thật sự có giá
trị đă đào tạo những chuyên gia mọi ngành có
thực tài để phục vụ cho xă hội,
đất nước chứ không như những “thạc
sĩ”, “tiến sĩ “ giấy ở Việt Nam ngày nay.
Tổ chức
đại học ở miền Nam theo lối của
người Pháp. Ở một thành phố lớn,
người ta lập ra một viện đại học
(Université), trong đó có nhiều phân khoa (Faculté),
trường (École),. Đứng đầu viện
đại học là Viện trưởng (recteur), phân khoa
là khoa trưởng (doyen), trường là giám đốc
(directeur).
Một
điều cần nhắc đến là Đại Học
ở miền Nam trước 1975 hoàn toàn tự trị
như đă ghi trong hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa 1956
và 1967 nghĩa là đại học không bị áp lực
từ bên ngoài, ban giảng huấn tự chủ không
phụ thuộc vào ban giám đốc trường, giáo sư tự do soạn
thảo giáo tŕnh.
Phần 1
Các trường đại học
công lập
a)Viện
đại học Sài G̣n
Viện
Đại học Sài G̣n là một viện đại
học công lập ở Sài G̣n, được thành lập
vào tháng 3 năm 1957 bởi chính quyền Việt Nam Cộng
hoà. Đây là viện đại học được xem
là có uy tín nhất ở miền Nam Việt Nam thời
bấy giờ, cung cấp các giáo sư đi thỉnh
giảng ở các viện đại học khác. Viện
đại học này cấp bằng cử nhân, thạc
sĩ, và tiến sĩ.
Tiền thân
của Viện Đại học Sài G̣n là Viện
Đại học Đông Dương(Université
Indochinoise) do chính quyềnthuộc địa Pháp thành
lập ở Hà Nội vào năm 1906. Sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai, Viện Đại học
Đông Dương được đổi tên thành
Viện Đại học Hà Nội (Université de Hà
Nội), đứng đầu là một viện
trưởng người Pháp.
Do yêu cầu
của người dân miền Nam, Viện Đại
học Hà Nội mở một chi nhánh ở Sài G̣n,
đặt dưới quyền một phó viện
trưởng người Việt. Sau năm 1954, chi nhánh này
(cùng với một phần di chuyển từ Hà Nội vào)
trở thành Viện Đại học Quốc gia Việt
Namdưới chính thể Quốc gia Việt Nam.
Đối với sinh viên đại học Hà Nội,
Bộ Tư lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và
13 Tháng Tám đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào
Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại c̣n 2/3
chọn di cư vào Nam.
Vào năm 1957,
thời Đệ nhất Cộng ḥa, Viện Đại
học Quốc gia Việt Nam trở thành Viện
Đại học Sài G̣n khi có thêm Viện Đại
học Huế. Văn pḥng Viện trưởng Viện
Đại học Sài G̣n đặt ở số 3 Công
trường Chiến Sĩ.
Viện
đại học Sài G̣n gồm có tám phân khoa:
1.
Văn
khoa
2.
Luật
khoa
3.
Y
khoa
4.
Dược
khoa
5.
Nha
khoa
6.
Khoa
học
7.
Sư
phạm
8.
Trường
Cao đẳng kiến trúc.
Bản thân tôi là
sinh viên phân khoa sư phạm, ban toán khoá 5 (1962-1965).
Viện
đại học này có hai kư túc xá: Đại học xá Minh
Mạng (tại Ngă sáu Chợ Lớn) cho nam sinh viên và
Đại học xá Trần Quư Cáp (Quận 1) cho nữ sinh
viên.
Vào thời
điểm năm 1961, Trường Đại học Khoa
học có 2.135 sinh viên theo học; Trường Đại
học Y khoa có 1.490 sinh viên. Các phân khoa kia là Luật khoa,
Văn khoa, Dược khoa, Sư phạm, và Kiến trúc.
Tính tất cả các phân khoa th́ Viện Đại học
Sài G̣n niên khóa 1963 có 14.854 sinh viên ghi danh, và đến năm
1973 th́ đạt 64.000.
Viện
trưởng cuối cùng của viện đại học
Sài G̣n là giáo sư Trần Văn Tấn, Tiến sĩ Toán
Vật Lư Lư thuyết, Toulouse 1959.
b-Viện
đại học Huế
Viện
Đại học Huế là một viện đại học công
lập ở thành phố Huế, được thành
lập vào năm 1957 dưới chính thể Việt Nam
Cộng hoà
Tháng 3 năm 1957,
dưới thời đệ nhứt Cộng Hoà, Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm kư sắc lệnh thành lập
Viện Đại học Huế gồm 4 trường
đại học (c̣n gọi là phân khoa đại
học): Khoa học, Văn khoa, Luật khoa, và Sư
phạm.
Viện
trưởng đầu tiên là giáo sư Nguyễn Quang Tŕnh
(1/3/1957–7/1957), kế nhiệm là linh mục Cao Văn
Luận. Đến năm 1959, Viện Đại học
Huế mở thêm chương tŕnh dự bị y khoa.
Năm 1961 th́ thành lập thêm Trường Đại
học Y khoa
Ngay trong 12 năm
đầu tiên, từ năm học 1957-1958 đến
năm học 1968-1969, Viện Đại học Huế
đă có những phát triển vượt bậc:
·
Sinh viên: từ 670 tăng lên 2.491 (1963)[4] rồi
3.319 sinh viên - tăng 495 phần trăm;
·
Giáo sư: từ 6 giáo sư cơ hữu và 19 giáo sư
thỉnh giảng tăng lên 60 giáo sư cơ hữu và 145
giáo sư thỉnh giảng - tăng 920 phần trăm;
·
Ngân sách: từ 3.700.000 đồng/năm tăng lên
116.401.000 đồng/năm (tương đương
986.450 đô la Mỹ) - tăng 3.140 phần trăm.
Sau đây là chi
tiết về các phân khoa của viện Đại Học
Huế:
-Trường Đại học Khoa học:
năm 1970 có 1.115 sinh viên; hiệu trưởng là
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hai (44 tuổi, quê ở
Huế, cựu sinh viên Viện Đại học
Sorbonne)
-Trường Đại học Văn khoa:
năm 1970 có 944 sinh viên; hiệu trưởng là
Tiến sĩ Lâm Ngọc Huỳnh (39 tuổi, từng
ở Hà Nội, cựu sinh viên Viện Đại học
Sorbonne).Trường Đại học Luật khoa:
năm 1970 có 627 sinh viên; khoa trưởng là Tiến sĩ
Nguyễn Sĩ Hải (48 tuổi, quê ở Huế, cựu
sinh viên Viện Đại học Sài G̣n).
-Trường Đại học Sư phạm:
năm 1970 có 407 sinh viên; khoa trưởng là Tiến
sĩ Nguyễn Quới (45 tuổi, quê ở Quảng Ngăi,
cựu sinh viên Viện Đại học Sorbonne). Trường
này c̣n kiêm thêm Trường Trung học Kiểu mẫu
Huế (thành lập năm 1964).
-Trường Đại học Y khoa:
năm 1970 có 226 sinh viên; khoatrưởng là Bác sĩ Bùi
Duy Tâm (47 tuổi, quê ở Hà Nội, cựu sinh
viên Viện Đại học Sài G̣n và Viện
Đại học Chicago). Khóa đầu tiên tốt
nghiệp là năm 1969 với 25 tân khoa.
Các Viện
trưởng:
-Nguyễn Quang Tŕnh, tiến sĩ quốc
gia Vật lư. Viện trưởng từ 1/3/1957
đến tháng 7/1957
-Cao Văn Luận, linh mục Công giáo, Cử
nhân triết học. Viện trưởng từ 7/1957—8/1963
và 11/1963- 9/1964
-Trần Hữu Thế, giáo sư tiến
sĩSinh học. Viện trưởng từ 8/1963
đến 10/1963
-Trương Văn Chôm, thạc
sĩ Dược khoa. Viện trưởng 10/1963
đến 11/1963
-Bùi Tường Huân, giáo sư tiến sĩ Luật
khoa. Viện trưởng từ 1964 đến 1966
-Nguyễn Hữu Trí, tiến sĩ Vật lư. Viện
trưởng các tháng 7,8,9 năm 1966
-Nguyễn Thế Anh, giáo sư tiến sĩ Sử
Địa. Viện trưởng 1966—1969
-Lê Thanh Minh Châu, giáo sư Ngữ văn (Anh ngữ)
Viện trưởng từ tháng 9/1969 đến 3/1975
C-Viện Đại Học
Cần Thơ
Viện Đại học Cần Thơ là một viện đại
học công lập ở Cần Thơ, được thành
lập vào năm 1966.
Ba năm 1966[2]
theo sắc lệnh 62-SL/GD,[3] Viện Đại học
Cần Thơ khi khai giảng vào cuối Tháng Chín có bốn
phân khoa đại học:
1.
Khoa
học,
2.
Luật
khoa và Khoa học Xă hội,
3.
Văn
khoa,
4.
Sư
phạm.
Phân khoa Sư
phạm có Trường Trung học Kiểu mẫu. Ngoài ra
Viện Đại học Cần Thơ có Trường Cao
đẳng Nông nghiệp đào tạo hệ kỹ sư
và Trung tâm Sinh ngữ giảng dạy chương tŕnh
ngoại ngữ cho sinh viên. Sau này Viện Đại
học Cần Thơ có mở thêm phân khoa Canh nông. Đây là
viện đại học thứ năm của Việt Nam
Cộng ḥa (bốn viện đại học kia là Viện
Đại học Sài G̣n, Viện Đại học
Huế, Viện Đại học Đà Lạt, và Viện
Đại học Vạn Hạnh).
Năm
đầu tiên đó có 985 sinh viên ghi danh học với
viện trưởng là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ.Đến
năm 1969-70 th́ số sinh viên tăng lên thành 2.694
dưới sự hướng dẫn của 192 giáo sư.Viện
đại học có ba khuôn viên: trụ sở chính ở
Công trường Ḥa B́nh trong Viện ĐẠi Học Bách
Khoa Thủ Đức
thành phố,
một số phân khoa đặt ở Cái Răng và khuôn viên
thứ ba ở Cái Khế.
d)
Viện đại học bách khoa Thủ Đức
Viện Đại học Bách khoa
Thủ Đức (Thủ Đức
Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức
Poly) là một viện đại học công lập có khuôn viên chính nằm ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định được thành lập vào năm 1973 và đi vào hoạt động vào
năm 1974 dưới chính thể Việt Nam Cộng ḥa.
Viện đại học bách khoa
là một cơ sở giáo dục đại học đa
ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành
thực tiễn (như kỹ thuật, nông nghiệp, lâm
nghiệp, thú
y) - đây là điểm khác biệt
giữa mô h́nh "viện đại học bách khoa" và
mô h́nh "viện đại học". Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức được thành lập
dựa theo mô h́nh các polytechnic university ở tiểu
bang California, Hoa
Kỳ, thời đó như: California
Polytechnic State University ở San Luis Obispo và California State
Polytechnic University ở Pomona.
Viện
Đại học Bách Khoa Thủ Đức
được thành lập bởi Sắc Lệnh số
264-TT/SL do Tổng thống Việt Nam
Cộng ḥa Nguyễn
Văn Thiệu kư ngày 29/3/1973. Tiến sĩ Đỗ Bá Khê Thứ
trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên
được cử làm Viện trưởng Viện
Đại học Bách Khoa Thủ Đức.
Sang
năm sau Học viện Quốc gia Kỹ thuật
được biến cải thành Trường
Đại học Kỹ thuật và sáp nhập vào Viện
Đại học Bách khoa Thủ Đức bởi Sắc
lệnh số 010-SL/VHGDTN do Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm kư ngày 11 Tháng Giêng năm 1974. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Toàn
được cử làm Khoa trưởng Trường
Đại học Kỹ thuật.
Trong
thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa
Thủ Đức có các trường đại học
chuyên về Nông
nghiệp, Kỹ thuật, Giáo dục
Kỹ thuật, Khoa học, Kinh tế-Quản trị, và Thiết
kế Đô thị; ngoài ra c̣n có trường đào
tạo sau đại học. Theo dự kiến, các cơ
sở giáo dục đều gom chung lại trong một
khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường
gợi hứng cho trí thức suy luận, với một
cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc
sáng tạo; quản lư hành chính tập trung để
tăng hiệu năng và giảm chi phí.[1]
Hạt
mầm của Viện Đại học Bách khoa Thủ
Đức là đề án Làng Đại học Thủ
Đức của Viện Đại học Sài G̣n được
chính phủ Đệ Nhất Cộng
ḥa soạn
ra vào tháng 1 năm 1961. Đây là một
phần trong quy hoạch tổng thể đô thành Sài
G̣n và
kế hoạch kiến thiết quốc gia. Theo kế
hoạch đó th́ các Trường Đại học Khoa
học, Văn khoa, Sư phạm, Luật khoa, và
Trường Cao đẳng Kiến trúc sẽ dời
lên Thủ
Đức. Riêng Trường Đại học Y
Dược sẽ được giữ lại ở Sài
G̣n. Hai kiến trúc sư Ngô
Viết Thụ và Lê Văn Lắm được
giao thiết kế Làng Đại học Thủ
Đức trên diện tích 3 km² bao gồm các
cơ sở hành chánh, thư viện, sân
vận động, cư xá sinh viên, và 300 ngôi nhà dành cho giáo sư và
nhân viên.[3] V́ t́nh h́nh chiến
tranh,
dự án này bị đ́nh trệ và sau đó chỉ
thực hiện một phần để lập ra
Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức.
Viện Đại học Bách khoa Thủ
Đức gồm có 7 trường đại học, trong
đó có 3 trường đă tồn tại và hoạt
động riêng rẽ trước đó và 4 trường
mới:[4]
1.
Trường
Đại học Kỹ thuật: Tiền thân là Trung tâm
Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ (1957), bao gồm Trường
Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng
Điện lực, Trường Kỹ sư Công nghệ,
và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1972, Trung tâm
này trở thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật.
Năm 1974, Học viện Quốc gia Kỹ thuật
đổi tên thành Trường Đại học Kỹ
thuật và sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa
Thủ Đức. Trường Đại học Nông
nghiệp: Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Nông-Lâm-Súc,
rồi Học
viện Quốc gia Nông nghiệp (1972).
2.
Trường
Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư
phạm Kỹ thuật.
3.
Trường
Đại học Kinh Thương ("Kinh Thương" là
viết tắt của "Kinh tế và Thương
mại").
4.
Trường
Đại học Khoa học Cơ bản.
5.
Trường
Đại học Thiết kế Thị Thôn ("Thị Thôn" là
viết tắt của "Thành thị và Nông thôn").
6.
Trường
Sau Đại học (College of Graduate Studies), điều
phối các chương tŕnh đào tạo bậc cao học và tiến sĩ.
Rất tiếc,
miền Nam sụp đổ ngày 30/4/1975 kéo theo sự tan
vỡ của một kế hoạch phát triễn
đại học theo hướng của các quốc gia tân
tiến.
e)Các
trường đại học công lập không nằm trong
viện đại học Sài G̣n
-Trung tâm quốc gia kỷ thuật
Phú Thọ
Trung tâm Quốc gia Kỹ
thuật Phú Thọ là một cơ sở giáo dục
của Việt Nam
Cộng ḥa. Tên chính thức của cơ sở là Trung
tâm Quốc gia Kỹ thuật nhưng v́ tọa
lạc ở khu Phú Thọ phía tây bắc Sài G̣n nên
thường được gọi là Trường
Kỹ thuật Phú Thọ. Trường này hoạt
động từ năm 1957 đến năm 1974 th́
nhập vào Viện
Đại học Bách khoa Thủ Đức.
Theo sắc lệnh kư vào Tháng Sáu năm 1957
thời Đệ Nhất
Cộng ḥa Việt Nam th́ Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ
được thành lập với bốn trường
phụ thuộc:
1. Trường Cao
đẳng Công chánh (có từ năm 1947)
2. Trường
Việt Nam Hàng hải (1948)[3]
3. Trường
Quốc gia Kỹ sư Công nghệ (1956-1975)
4. Trường Cao
đẳng Điện học (1957)
V́ học tŕnh khác nhau nên bắt đầu niên
học 1958 Bộ Quốc gia Giáo dục điều
chỉnh lại để cả ba ngành công chánh, công
nghệ và điện học đều đào tạo kỹ sư bốn năm
học hoặc cán sự hai năm học Riêng
Trường Hàng Hải th́ năm 1973 mới chính thức
thuộc cấp cao đẳng.
Năm 1962 tăng cường thêm Trường
Cao đẳng Hóa học và đến năm 1968 th́ bắt
đầu phát bằng kỹ sư Hóa
học.
Sang năm 1972 thời Đệ Nhị
Cộng Ḥa, Trung tâm này đổi tên thành Học
viện Quốc gia Kỹ thuật rồi
Trường Đại học Kỹ thuật năm 1974.
Cũng năm đó Trường được gom vào thành
một thành phần của Viện
Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Trường
sở của Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật là một
khuôn viên hai hecta góc
đường Nguyễn Văn Thoại và Tô Hiến
Thành. Khu vực có giảng đường, pḥng thí
nghiệm, và cơ xưởng.
Tính đến năm 1975 th́ trường Cao
đẳng Điện học đào tạo
được 890 chuyên viên[9], trường Cao
đẳng Công chánh, 2000 (1902-1975) và trường Quốc
gia Kỹ sư Công nghệ đă đào tạo
được khoảng 700 chuyên viên phục vụ tất
cả các ngành công cũng như tư
Năm 1962, tôi đậu kỳ thi tuyển vào
trường Cao Đăng Điện Học đồng
thời vào trường đại Học Sư Pham và tôi
đá chọn ngành Sư Phạm..
-Học Viện Quốc Gia hành
Chánh
Trường Quốc gia Hành chánh
được Quốc trưởng Bảo Đại kư sắc luật thành lập ngày 07
tháng 04 năm 1952.[Hạt nhân của Trường lúc
đầu là Trường Đại học Luật khoa ở
Hà Nội với một bộ phận dời lên Đà Lạt.Trường
lúc đó thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục với học
tŕnh hai năm nhưng sau giao cho Phủ Thủ tướng
rồi Phủ Tổng thống. Năm 1955, sau khi thành lập nước Việt Nam Cộng ḥa, Trường chuyển về Sài G̣n đặt
ở đường Alexandre de Rhodes gần Dinh Độc Lập rồi lại dời về số 10
đường Trần Quốc Toản, Quận 3, vào
năm 1958.[ Cơ sở vật chất gồm
có giảng đường 500 chỗ, kư
túc xá cho 114 sinh viên, thư
viện với hơn 100.000 văn bản,
nhà sinh hoạt, sân quần
vợt, sân bóng chuyền. Trụ sở
mới c̣n có nguồn nước giếng riêng và máy phát điện. Việc thành lập trường do Đại
học Tiểu bang Michigan/Michigan State University(MSU) trợ
giúp trong việc soạn giáo tŕnh.] Kho sách của trường được
coi là một trong những thư
viện lớn nhất của Việt
Nam Cộng ḥa.]
Chương
tŕnh đào tạp:
1- Tham sự hai
năm,
2-Đốc sự/Giám
sự ba năm rưỡi
3-Cao học.
Tham
sự là chương tŕnh hai năm ngay tại Học
viện Quốc gia Hành chánh. Có tất cả năm khóa Tham
sự(mỗi khóa 100 sinh viên) và một khóa Tham Sự
Đặc biệt dành cho các sắc tộc thiểu số
như người
Thượng, người Việt gốc Miên và người
Chàm.
Đốc
sự hay Giám sự là hai chức danh phân biệt ban hành chánh(Đốc sự) và ban kinh tế (Giám sự).
Kể từ năm 1963 th́ gộp lại chỉ c̣n Ban
Đốc sự. Kể từ ngày thành lập Học
viện Quốc gia Hành chánh đến 1975, có tất cả
22 khóa Đốc sự (mỗi khóa có 100 sinh viên
được thi tuyển vào), học tŕnh là ba năm sáu
tháng. Năm đầu tiên học lư thuyết tại
Học viện; năm thứ hai được đi
thực tập tại các địa phương (các tỉnh và Đô thành Sài G̣n); năm thứ ba th́
về lại Học viện học lư thuyết (hành chánh,
tài chánh, xă hội, ngoại giao, toán, kinh tế). Sau năm
thứ ba, sinh viên có 06 tháng đi thực tập tại các
bộ ở Trung ương và chọn một đề
tài luận văn tốt
nghiệp. Sau kỳ thi ra trường, sinh viên trở
thành công chức hạng A với ngạch trật phó
đốc sự hạng 03 và được cử đi
làm việc theo nhu cầu bao gồm Bộ Nội vụ
(cho các tỉnh và quận) tùy nhu cầu. Sinh viên mới ra
trường được đề cử làm:
1.
Phó Quận trưởng (tại các quận)
2.
Trưởng ty (tại Ṭa Hành chánh Tỉnh) hay
3.
Phó Tỉnh Trưởng (Ṭa Hành chánh Tỉnh).
Tại
các Bộ chuyên môn ở Trung ương th́ Đốc
sự có thể kiêm nhiệm Chủ sự các Pḥng, Chánh
sự vụ các Sở, hay Giám đốc các Nha.
Cao
học là hai năm đào tạo thêm dành cho sinh viên đă
tốt nghiệp Đốc sự hoặc có bằng cử nhân các ngành
học về khoa
học xă hội. Cho đến năm 1975 có tất cả tám
khóa Cao học(cả Ngoại giao).
Các
môn học gồm những kiến thức như Soạn
thảo Công văn, Kế toán Thương mại,
Định chế Chính trị, Luật Hành chánh, Quốc
tế Công pháp, Luật
Hiến pháp, Xă
hội học và cả Huấn luyện Quân sự tại
các Trung tâm Huấn luyện Đồng Đế Nha Trang,
Quang Trung, và Thủ Đức.
Viện
trưởng đầu tiên của trường là giáo
sư Nguyễn Văn Bông (1963-1971). Ông bị VC ám sát ngày
10/11/1971 tại Sài G̣n.
-Trường cao đẳng Nông
Lâm Súc
Trường
Quốc Gia Nông Lâm Mục được thành lập ngày 19
tháng 11 năm 1955 do Nghị Định số 112-BCN/NĐ của
Bộ Canh Nông. Trường tọa lạc trên một thửa
đất ph́ nhiêu ước lượng khoảng 500
mẩu, trên quốc lộ 20, phía Tây Thị xă Bảo
Lộc. Quanh Trường là núi, rừng và các
đồi chè xanh, nên phong cảnh rất hữu t́nh.
Trường QGNLM nguyên thủy được biết
dưới tên Trường QGNLM Blao. Cho đến khi
Thị xă Blao đổi tên là Bảo Lộc, Trường
mới có tên Bảo Lộc. Theo nghị định thành
lập, Trường là một trường cao đẳng
gồm có:
-một
cấp cao đẳng
-một cấp trung đẳng
-và những lớp theo mùa, không học kỳ và hạn
định.
Khóa 1
cấp trung đẳng khai giảng ngày 12 tháng 12 năm 1955
trong một buổi lễ long trọng. Sau 3 năm
học tập, Khóa 1 tốt nghiệp năm 1958 với 63
sinh viên được cấp văn bằng kiểm
sự 3 ngành Canh Nông, Thủy Lâm và Mục Súc.
Trường QGNLM đào tạo được 8 khóa trung
đẳng với gần 600 chuyên viên các ngành nông, lâm và súc.
Khóa
cao đẳng đầu tiên của Trường QGNLM khai
giảng trong niên học 1959. Nghị Định
số 286 BCN/NĐ/HC ngày 6/8/1959 ấn định tổ
chức cấp cao đẳng với học kỳ 3
năm và gồm 3 ban Nông Khoa, Lâm Khoa và Súc Khoa. Sau đó,
Trường trải qua một loạt biến đổi
như sau:
1.
Năm
1963, Nghị Định số 1184 GD/HC đổi tên
cấp cao đẳng Trường QGNLM ra Trường Cao
Đẳng Nông Lâm Súc với học kỳ 4 năm. Sau khi
đào tạo được 5 khóa cao đẳng tại
Bảo Lộc, v́ lư do an ninh, Trường được
dời về Sàig̣n tại địa điểm
đường Cường Để.
2.
Năm
1967, Trường CĐNLS được đặt
trực thuộc Bộ Giáo Dục do Nghị Định
số 483 GD ngày 23/3/1967.
3.
Năm
1968, Bộ Giáo Dục đổi tên Trường thành Trung
Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp với 3 trường Cao
Đẳng Nông Nghiệp, Cao Đẳng Thú Y Chăn Nuôi và
Cao Đẳng Thủy Lâm do Sắc Lệnh số 158 SL/VHGD
ngày 9/11/1968.
4.
Năm
1972, Trung Tâm QGNN đổi tên là Học Viện Quốc Gia
Nông Nghiệp do Sắc Lệnh số 174 SL/GD ngày
29/11/1972.
5.
Năm
1974 Học Viện QGNN được xát nhập vào
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
với tên mới là Đại Học Nông Nghiệp do
Sắc Lệnh số 10 SL/VHGDTN ngày 11/1/1974.
V́ số sinh viên
quá đông, các trường đại học ở
miền Nam không thể thâu nhận hết các học sinh
đă tốt nghiệp trung học (Tú Tài 2) nên hầu
hết các trường đại học phải tổ
chức thi tuyển chỉ trừ 3 trường
đại học Văn Khoa, Luật Khoa và Khoa học cho
phép tự do ghi danh..Do đó sĩ số các trường
đó rất đông: Văn Khoa 30.000 (1974), Luật Khoa (58.000) và Khoa Học (1969).
Tài liệu tham khảo:
-Wikipedia,
tiếng Việt
Viện
Đại Học Sài G̣n
Viện Đại Học Huế
Viện Đại Học Cần Thơ
Viện
ĐẠi Học Bách Khoa Thủ Đức
Trung Tâm Quốc Gia Kỷ Thuật Phú Thọ
Học viện Quốc Gia Hành Chánh Viện ĐẠi Học Bách Khoa
Thủ Đức
-Nguyễn Thanh Liêm, Giáo dục ở miền Nam
tự do trước 1975 (Education in South Vietnam before 1975),
Lê Văn Duyệt Foundation, California, 2006.
-Nguyễn Văn Lục. Lịch sử C̣n Đó.
Garden Grove, CA: Tân Văn, 2008
-The University of Huế, Viet-Nam Bulletin No. 24 (1970).
Bản PDFLưu trữ 2006-10-12 tại Wayback
Machine.
-Quá tŕnh h́nh thành và phát triển”. Trường
Đại học Cần Thơ.
-Nền Giáo dục Việt Nam Dưới Chính Thể
Quốc gia (1945-1975)
-Trường
Việt Nam hang hải
http://vnhanghaiphap.free.fr/?p=6695
-Quốc Gia Hành
Chánh miền Đông
https://quocgiahanhchanhmd.com/hoc-vien-quoc-gia-hanh-chanh-2/
-Lịch Sử
Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục
https://www.advite.com/NLMB/QGNLM/lichsutruong.htm
(C̣n tiếp)