Chương 2:

Chiến tranh Việt Nam và sự hiện diện của người Mỹ ở miền Nam

Năm 1941, sau khi trở về nước. Hồ Chí Minh nhận thức được vai tṛ và tầm ảnh hưởng của Mỹ đối với nền chính trị thế giới và khu vực, v́ vậy đồng thời với xây dựng lực lượng Việt Minh, Hồ Chí Minh đă t́m cách xây dựng mối quan hệ với lực lượng Mỹ đồn trú ở Trung Quốc.

Tháng 2-1945, sau khi lực lượng Việt Minh cứu được Trung úy phi công Mỹ là William Shaw (máy bay của viên phi công này bị quân đội Nhật Hoàng bắn rơi ở Việt Bắc), Hồ Chí Minh đă trực tiếp đưa viên phi công sang trao trả cho Bộ Tư lệnh Không quân số 14 của Mỹ đang đồn trú ở Vân Nam. Ông ta đă gặp, trao đổi với tướng Chenault, Tư lệnh không quân Mỹ ở Trung Quốc và thiết lập được mối quan hệ với Mỹ và các lực lượng Đồng minh giúp Việt Minh chống Nhật.

Thông qua các cuộc tiếp xúc của Người, Cơ quan t́nh báo chiến lược OSS của Mỹ (tiền thân của CIA) đă giúp đỡ Việt Minh điện đài, thuốc men và vũ khí nhẹ… Tuy đây chỉ là sự giúp đỡ mang tính tượng trưng, nhưng đă mở ra sự giúp đỡ của các nước đồng minh đối với Việt Minh

Sau khi cướp chính quyền từ tay thủ tướng Trần Trọng Kim, tháng 8 năm 1945 Hồ Chí Minh đă chủ động liên hệ với một số nhân vật có tầm ảnh hưởng đối với Chính phủ Mỹ. Sau khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Ông ta tiếp xúc, trao đổi với các sỹ quan Mỹ ở Hà Nội như thiếu tá Thomas, thiếu tá Archimedes L.A.Patti… để chuyển ư muốn của Việt Minh muốn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Tổng thống Harry Truman và các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ.

Nhưng các nhà lănh đạo của Hoa Kỳ nh́n thấy Việt Minh chỉ là vỏ bọc của một lực lượng tay sai của quốc tế cộng sản nên đă từ chối những đề nghị của Việt Minh và quay sang ủng hộ Pháp để tiêu diệt mầm móng của chủ nghĩa cộng sản mưu toan nhuộm đỏ Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Những năm 1946 và 1947, Mỹ không ngăn cản Pháp mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhưng cũng không trực tiếp viện trợ cho các lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Măi đến năm 1947, khi Mỹ viện trợ cho nước Pháp 3 tỷ đôla theo kế hoạch Marshall, nhờ đó Pháp mới đỡ khó khăn hơn trong việc tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam.

Tổng thống Truman đă phê chuẩn (ngày 30-12-1949) một văn kiện của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, trong đó nhấn mạnh "cần thiết phải ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản ở Đông Dương". Đông Nam Á trở thành chiến trường quan trọng (lúc đó vẫn là sau Đông Bắc Á) trong chiến lược của Mỹ ở châu Á. Chiến lược ngăn chặn ở Đông Nam Á coi như chính thức bắt đầu từ đó và Đông Dương trở thành trọng điểm của chiến lược Đông Nam Á của Mỹ.

Sau khi Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra ư kiến viện trợ quân sự cho chính quyền Quốc gia Việt Nam thông qua Pháp (ngày 27-2-1950) được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ủng hộ, Mỹ đă để lộ ư đồ muốn ủng hộ Quốc gia Việt Nam bằng cách viện trợ quân sự thẳng cho chính quyền này không thông qua Pháp. Mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ trong chiến tranh Đông Dương lúc này đă bộc lộ công khai và có phần gay gắt.

Ngày 14-9-1951, tướng De Lattre sang gặp Tổng thống Harry Truman, Bộ trưởng quốc pḥng Hoa Kỳ và tướng Collins, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ tiếp. Lô viện trợ đầu tiên của Mỹ gồm rất nhiều chiến cụ và khí giới: 9.000 súng tiểu liên, 500 đại liên, 5.000 xe chuyên chở đủ loại, 600 máy truyền tin và các xe chiến đấu, máy bay, tàu hải quân, tàu sửa chữa...

Từ tháng 7-1950 đến 1-1-1952, Mỹ đă cung cấp cho Pháp gần 300 triệu đôla vũ khí và trang bị quân sự. Tại hội nghị tay ba Mỹ, Pháp, Anh họp ở Paris bàn về các vấn đề Đông Nam Á ngày 28-5-1952, Ngoại trưởng Mỹ Akison nói từ tháng 6-1951 đến tháng 6-1952, Mỹ đă gánh chịu một phần ba (1/3) chi phí cho cuộc chiến tranh của Pháp và Quốc gia Việt Nam ở Đông Dương. Và từ hội nghị này, Mỹ đồng ư tăng thêm 150 triệu đôla trong tài khoá 1952-1953 viện trợ quân sự cho Pháp và Quốc gia Việt Nam. Le Tourneau, đại diện Chính phủ Pháp xác nhận sáu tháng tới viện trợ quân sự Mỹ sẽ chiếm tỷ lệ 40% chi phí chiến tranh ở Đông Dương.

Mặc dầu vậy, Pháp vẫn không bớt lo ngại trước ư định của Mỹ ủng hộ trực tiếp Quốc gia Việt Nam để chính quyền này ly khai khỏi Liên hiệp Pháp thành lập một quốc gia độc lập không thuộc Liên hiệp Pháp. Ngày 16-6-1952, Le Tourneau, Bộ trưởng phụ trách Đông Dương trong Chính phủ Pháp tuyên bố ở Mỹ rằng, Pháp cần Mỹ tăng cường viện trợ quân sự, nhưng không muốn có quân đội nước ngoài ở Đông Dương (ư nói không muốn Mỹ đưa quân vào).

Năm 1953, Eisenhower - Nixon chính thức cầm quyền sau khi đánh giá lại t́nh h́nh, đă đề ra "chủ nghĩa Eisenhower", thay cho "học thuyết Truman" và lấy chiến lược "trả đũa ào ạt" làm chiến lược quân sự toàn cầu mới, thay cho chiến lược "ngăn chặn".

Trong t́nh h́nh Pháp đang gặp rất nhiều khó khăn và ở thế bất lợi trong cuộc chiến tranh, một mặt, Mỹ dốc thêm nhiều viện trợ cho Pháp; mặt khác, t́m mọi cách để trực tiếp nắm lấy việc điều hành chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 7-1953. Mỹ phê chuẩn Kế hoạch Nava, của bộ chỉ huy Pháp, gánh chịu mọi khoản chi phí cho kế hoạch đó, gồm gần 400 triệu đôla. Tính đến tháng 1-1954, riêng về vũ khí và phương tiện chiến tranh, Mỹ đă viện trợ cho Pháp ở Đông Dương gồm 360 máy bay, 1.400 xe tăngxe bọc thép, 390 tàu chiến và tàu quân sự, 16.000 xe quân sự các loại, 175.000 súng trườngsúng máy. Sau năm 1950, Hoa Kỳ đă cung cấp phần lớn vũ khí cho lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam.

Năm 1953, Mỹ vừa tăng viện trợ quân sự cho Pháp, vừa không ép Pháp nhiều, sợ Pháp bỏ cuộc sớm trong khi Mỹ chưa chuẩn bị đủ các điều kiện thuận lợi để thay Pháp tài trợ cho cuộc chiến tại Việt Nam, mặt khác, Mỹ cũng c̣n tính những kế hoạch riêng. Ngày 21-7-1953, Tổng thống Eisenhower chính thức mời Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Nguyễn Văn Tâm sang thăm Hoa Kỳ và được Mỹ cam kết ủng hộ giúp đỡ. Trong khi đó, Mỹ cũng bắt đầu cổ động cho chính trị gia khác là Ngô Đ́nh Diệm.

Để thuyết phục nội bộ chính giới Mỹ và dư luận Mỹ tán thành ủng hộ chủ trương chiến lược hỗ trợ các nhà nước tại Đông Dương nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á, chính quyền Eisenhower nhiều lần nhắc đến và nhấn mạnh hậu quả, tác động phản ứng dây chuyền của thuyết Domino. Chính quyền Washington cho rằng, nếu để mất Đông Dương sẽ gây ra những hậu quả xấu về tâm lư, chính trị, kinh tế, quân sự trọng yếu và sẽ mất nốt phần c̣n lại của Đông Nam Á. Đông Dương đang trở thành con bài Domino đầu tiên.

Sau khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ th́ Hoa Kỳ chính thức can thiệp vào chính trường Đông Dương.

Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale, người của CIA và đă làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, giúp huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam Cộng ḥa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippin; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "b́nh định Việt Minh và các vùng chống đối". Đúng 20 ngày sau khi Hiệp định Genève về Đông Dương được kư kết, đô đốc Mỹ Sabin đến Hà Nội, họp với phái đoàn quân sự Mỹ do Lansdale đứng đầu. Một bộ phận quan trọng trong kế hoạch đó là tuyên truyền kêu gọi hơn dân miền Bắc di cư vào Nam. Điều này góp phần vào việc hơn một triệu người (đặc biệt là dân Thiên Chúa giáo) di cư vào Nam. Phần đóng góp của Mỹ cho kế hoạch này là 1.455.000 đôla, 41 lượt tàu biển và 19 máy bay vận tải.

Hiệp định Genève về Đông Dương vừa được kư kết (20-7-1954), th́ Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ thông qua "kế hoạch Memphis". Tinh thần và nội dung cơ bản của kế hoạch này là "biến vĩ tuyến 17 thành một pḥng tuyến ngăn chặn (chủ nghĩa cộng sản) không thể xoá bỏ được". Để lập được pḥng tuyến đó cần có một tổ chức liên minh quân sự bao gồm Mỹ và các nước khác trong đó Mỹ đóng vai tṛ chủ chốt.

Sau một thời gian ngắn vận động chuẩn bị, Mỹ triệu tập một hội nghị ở Đông Nam Á, bao gồm: Mỹ, Anh, Pháp, Australia, New Zealand, Pakistan, Philippine, Thái Lan họp ở Manila (Thủ đô Philippine). Ngày 8-9-1954 các nước này đă kư "Hiệp ước pḥng thủ Đông Nam Á". Như vậy, chỉ hơn một tháng sau khi Hiệp định Genève về Đông Dương được kư kết, Mỹ đă thành lập Khối quân sự Đông Nam Á (gọi tắt là SEATO). Trong Hiệp ước này (c̣n gọi là Hiệp ước Manila) có điều 2, điều 4, điều 8 và một khoản phụ đặt xứ Đông Dương gồm ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia vào "khu vực bảo hộ" của khối Đông Nam Á.

Ngày 17-11-1954, Joseph Lawton Collins, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ được cử sang Sài G̣n làm đại sứ, đề ra kế hoạch sáu điểm:

·         Viện trợ thẳng cho Quốc gia Việt Nam không qua tay Pháp.

·         Phát triển quân đội Quốc gia Việt Nam với 15 vạn quân do Mỹ huấn luyện, trang bị.

·         Bầu cử quốc hội Quốc gia Việt Nam

·         Định cư cho dân công giáo miền Bắc di cư và thực hiện cải cách điền địa.

·         Thay đổi chế độ thuế khoá, tạo điều kiện cho đầu tư Mỹ tại Việt Nam.

·         Đào tạo cán bộ hành chính cho Quốc gia Việt Nam.

Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp kư kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ tham gia huấn luyện Quân đội Quốc gia Việt Nam. Mỹ thực sự từng bước đặt ảnh hưởng của ḿnh thay thế Pháp ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1-1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Việt Nam Cộng ḥa. Ngoại trưởng Mỹ, Dalles đă tuyên bố: "Đầu tư ở miền Nam Việt Nam là chính đáng. Không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục ủng hộ Diệm. Chúng ta không cần biết một người lănh đạo xứng đáng nào khác".

Tháng 8-1955, thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm công khai bác bỏ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam theo tinh thần Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève. Để chính phủ Quốc gia Việt Nam tách hẳn ra khỏi Liên Hiệp Pháp, xóa bỏ mọi ảnh hưởng mang tính thực dân và đặc quyền của Pháp tại Việt Nam, ngày 23-10-1955, thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm tổ chức cuộc Trưng cầu dân ư miền Nam Việt Nam, 1955 để truất phế Bảo Đại.

Ngày 26-4-1956, Pháp đă rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam. Từ ngày 28-4-1956 phái đoàn MAAG của Mỹ đă tham gia huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng ḥa.

Tính ra, từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đă viện trợ cho Việt Nam Cộng ḥa 7 tỷ đôla (tương đương khoảng 105 tỷ USD thời giá năm 2020), trong đó viện trợ quân sự là 1.500 triệu đôla (22,5 tỷ USD thời giá năm 2020).

Trong những năm 1955-1956, Mỹ đă bỏ ra 414 triệu đôla (thời giá khi đó) để trang bị cho các lực lượng thường trực Việt Nam Cộng ḥa gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của chế độ Ngô Đ́nh Diệm do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy tŕ bộ máy hành chính và quân đội khi không c̣n viện trợ của Pháp. Quân đội Liên hiệp Pháp người Việt dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.

Mỹ bắt đầu xây dựng các cơ sở quân sự quan trọng như các sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất, Sơn Trà, Vũng Tàu. Đến giữa năm 1956, Mỹ đă đặt ở Sài G̣n bốn phái đoàn: MAAG, TRIM, CATO, TERM và đến năm 1960 thêm hai phái đoàn: MSUUSOM. Riêng phái đoàn quân sự MAAG, năm 1954 có 200 cố vấn và nhân viên, đến năm 1960, con số đó đă lên đến gần 2.000 trong đó có 800 cố vấn quân sự.

Hoa Kỳ chủ trương đưa quân Mỹ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam nhưng tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cương quyết chống lại chủ trương đó.

Năm 1963 Mỹ dàn dựng cuộc đảo chính cho một nhóm tướng lănh lật đổ Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Đại sứ quán và t́nh báo Mỹ đă hỗ trợ cho cuộc đảo chính này, bao gồm cả việc trao 3 anh em Diệm - Nhu - Cẩn cho quân đảo chính. Kết quả cả ba anh em nhà họ Ngô bị quân đảo chính giết chết, chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ.

T́nh h́nh chính trị nội bộ Việt Nam Cộng ḥa lục đục sau khi tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị quân đảo chính giết chết, 14 cuộc đảo chính quân sự khác chỉ sau một năm rưỡi. Sự ḱnh chống nhau dữ dội của các tướng lĩnh khiến hệ thống chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng ḥa suy yếu. Bên cạnh đó, Bắc Việt đă tăng cường viện trợ hàng ngàn tấn vũ khí, và hàng chục ngàn người cho lực lượng Việt cộng miền Nam. Các khu Ấp chiến lược liên tiếp bị phá, quân đội Việt Nam Cộng ḥa dần dần bị đẩy khỏi nhiều vùng nông thôn và phải lui về pḥng ngự co cụm ở các vùng đô thị.

Mỹ phải đề ra một chiến lược mới - Chiến tranh cục bộ. Mỹ sẽ trực tiếp đem quân viễn chinh tới Việt Nam để tham chiến, chấm dứt sự can thiệp hạn chế ở mức cung cấp viện trợ và cố vấn như trong các giai đoạn trước đó.

Ngày 3/3/1965, thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng đánh dấu cuộc đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ và cộng sản.

Sau cuộc đảo chính 1/11/1963, t́nh h́nh chính trị miền Nam càng ngày càng suy sụp. Đảo chính xong, Tướng Dương Văn Minh, chủ tịch Hội đồng tướng lănh, được cử làm Quốc Trưởng. Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ Tướng. Nhưng chỉ 3 tháng sau, ngày 30/1/1964, các tướng lănh họp tại Bộ Tham Mưu để thanh trừng nội bộ. Nguyễn Khánh vẫn để Dương Văn Minh làm Quốc Trưởng nhưng tự ḿnh lên làm Thủ Tướng. Nhân lúc t́nh h́nh sôi nổi về vụ oanh tạc Bắc Việt, Nguyễn Khánh tập họp các tướng lănh tại Vũng Tàu, ban hành Hiến Chương Vũng Tàu, băi chức Quốc Trưởng của Dương Văn Minh và lên làm Quốc Trưởng. Phong trào phản đối Hiến Chương Vũng Tàu ngày càng lan rộng, buộc Nguyễn Khánh phải từ chức, được cử làm Đại Sứ lưu động sang Hoa Kỳ.

Hội đồng tướng lănh bầu Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia. Và lập nội các mới gọi là Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu, lo soạn thảo hiến pháp mới.

Ngày 1/4/1965, hiến pháp mới ra đời, bắt đầu nền Đệ Nhị Cộng Ḥa Nam Việt Nam.

Ngày 17/6/1965, Hội Đồng Tướng Lănh họp để chỉ định liên danh Nguyễn Văn Thiệu (tổng thống) Nguyễn Cao Kỳ (phó tổng thống) ra ứng cử. Liên danh này đắc cử. Nhưng khi nắm vững địa vị rồi, Nguyễn Văn Thiệu loại dần phái Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chính quyền và thay thế bằng Trần Thiện Khiêm (thủ tướng). Ê-kíp Nguyễn Văn Thiệu - Trần Thiện Khiêm lănh đạo miền Nam đến năm 1975.

Trong khi ấy t́nh h́nh chiến sự ngày càng khốc liệt.

Đêm 4/8/1964, xẩy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Mượn cớ pháo hạm miền Bắc tấn công hai tầu Maddox và Turner, chính quyền Johnson hạ lệnh oanh tạc Bắc Việt.

Vào cuối năm 1967, số quân miền Bắc có mặt ở miền Nam (chưa kể đường vận chuyển chiến lược mang tên Hồ Chí Minh) lên đến 210 000 người.

Ngày 31/1/1968, Bắc quân mở cuộc tổng tấn công, tổng khởi nghĩa trên toàn thể lănh thổ miền Nam. Nhân ngày tết Mậu Thân, Bắc quân xâm nhập hầu hết các tỉnh lỵ và các thành phố lớn, kể cả thủ đô Sàig̣n. Nhưng sau vài ngày, v́ không được sự hỗ trợ của nhân dân, Bắc quân hoàn toàn bị đẩy lui khỏi các thành phố, trừ Huế, cố thủ được 25 ngày. Cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, và khi rút lui khỏi Huế, Bắc quân đă để lại một sự tàn sát kinh hoàng với những mồ chôn tập thể, khiến người dân miền Nam, sau đó, không c̣n một ảo tưởng ǵ về cách mạng giải phóng. Nhưng về mặt quốc tế, nhờ trận chiến Mậu Thân mà chiến tranh Việt Nam được biết đến rơ hơn và những phong trào ḥa b́nh nổi lên khắp nơi trên thế giới, chống Mỹ.

Sau sự thất bại này, miền Bắc đổi chiến lược, bắt đầu dùng các trận địa chiến, điển h́nh là trận Khe Sanh.

Khe Sanh nằm trên quốc lộ số 9, nối liền Đông Hà với Savanakhet. Đây là một vị trí chiến lược, chặn đường tiến của Bắc quân, từ Quảng B́nh vào A Sao (phía tây Thừa Thiên). Bắc quân dùng hai sư đoàn thiện chiến tấn công Khe Sanh, áp dụng chiến thuật đào địa đạo để tiến vào các trại quân địch như ở Điện Biên Phủ. Nhưng Hoa Kỳ đă dùng trọng pháo và B52 oanh tạc dữ dội, nên Bắc quân phải rút sang Lào.

Thời gian này, ở Washington, tháng 2 năm 1968, Mc Namara từ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Pḥng. Người lên thay thế là Clifford. Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam cũng thay đổi. Clifford chủ trương để miền Nam tự lo lấy việc đánh nhau với miền Bắc. Sự mâu thuẫn giữa Bộ Quốc Pḥng và Tổng Tham Mưu (chủ trương tiếp tục giúp miền Nam) Hoa Kỳ ngày càng tăng, trong khi phong trào ḥa b́nh, theo chủ trương Mc Cathy, ngày càng thắng thế ở Mỹ. Johnson bắt đầu xuống thang chiến tranh và ngày 30/3/1968, Johnson giới hạn oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở vào Nam. Và ngày 3/4/1968, miền Bắc chấp nhận điều đ́nh.

Tháng 12/1968, Nixon đắc cử tổng thống. Kissinger trở thành cố vấn an ninh quốc gia, đặc trách việc điều đ́nh. Một văn bản nhận định về t́nh h́nh Việt Nam, do các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, được đệ tŕnh lên Hội đồng an ninh quốc gia, chủ yếu có các điểm:

- Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đă mạnh hơn những năm trước, nhưng ảnh hưởng rất yếu đối với giới trí thức;

- Các tổ chức chính trị chỉ đoàn kết khi bị Cộng sản đe dọa, nhưng sau đó lại chia rẽ, tranh quyền;

- Quân đội miền Nam đông hơn quân đội miền Bắc, trang bị tốt hơn và đôi khi tỏ ra rất hữu hiệu, nhưng lại bị nạn đào ngũ, chỉ huy kém và thiếu động cơ thúc đẩy. Trong tương lai, nếu không có Hoa Kỳ yểm trợ th́ không thể thắng nổi miền Bắc;

- Mục tiêu cuối cùng của miền Bắc vẫn là thống nhất Việt Nam dưới sự kiểm soát của họ;

- v.v...

Sau khi nghiên cứu kỹ bản tường tŕnh này, Kissinger cho rằng Mỹ không thể nào thắng thế ở Việt Nam được, chỉ c̣n cách làm thế nào cho quân Mỹ rút ra mà đỡ mất mặt. Sau 3 năm điều đ́nh tại Paris, từ 1969 đến 1972, Hiệp định đ́nh chiến được kư kết tại Paris ngày 27/1/1973 giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Miền Nam Việt Nam chia thành hai vùng Quốc-Cộng xen kẽ theo kiểu da báo. Bắc quân chiếm sườn dựa Lào và Căm Bốt, vùng đồi núi và một số các tỉnh dân cư thưa thớt. Nam quân giữ các vùng đồng bằng và các tỉnh đông dân. Quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam và viện trợ quân sự cho miền Nam cũng giảm dần. Văn Tiến Dũng viết: "Trong tài khóa 1972-1973, Mỹ viện trợ cho ngụy 1614 triệu đô-la về quân sự, tài khóa 1973-1974 chỉ c̣n 1026 triệu đô la và tài khóa 1974-1975 giảm cuống c̣n 700 triệu.".

Sau hiệp định Paris 1973, chiến tranh chưa bao giờ ngừng: Quân đội hai bên đều tranh nhau chiếm đất.

Lực lượng quân số của hai bên khá tương đương, nhưng Nam quân phải trải binh để giữ đất, c̣n Bắc quân có thể tập trung quân số vào một chiến trường nhất định. Quân đội hai bên đều được trang bị vũ khí tối tân của ngoại bang, nhưng số vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc viện trợ cho miền Bắc có phần hữu hiệu hơn. Ví dụ: Nam quân c̣n dùng súng trường M1, th́ Bắc quân đă có AK47. Nam quân có kích pháo 81 ly, Bắc quân có kích pháo 82 ly. Nam quân có đại bác 105 ly thí Bắc quân có hỏa tiễn 130 ly.

Về quân số, tính đến cuối năm 1973, không kể các lực lượng dân quân và du kích quân, Bắc quân có mặt ở miền Nam khoảng 170 000 quân chính quy từ Bắc vào và 30 000 quân chính quy tuyển thẳng từ miền Nam. Nam quân, không kể các lực lượng địa phương quân, có khoảng 220 000 quân bộ binh, gồm 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến và 15 liên đoàn biệt động quân. Ngoài ra c̣n có các lực lượng yểm trợ gồm pháo binh và thiết giáp. Không quân có 41 000 người và Hải quân có 39 000 người.

Sau hiệp định Paris, miền Nam tổ chức những cuộc hành quân lớn, chiếm lại nhiều vị trí trước đây bị Bắc quân kiểm soát như Cửa Việt, Sa Huỳnh, Bắc Kontum, Chư Nghé, Kiến Đức, Quảng Đức, đường 4 ở Mỹ Tho, đường 2 ở Bà Rịa, vùng Bẩy Núi ở Long Xuyên, v.v... Văn Tiến Dũng viết: "Trong ṿng 11 tháng của năm 1973, địch đă sử dụng 60 phần trăm quân chủ lực và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương, mở trên 360 000 cuộc hành quân lấn chiếm, giải tỏa và hành quân an ninh, tập trung lực lượng lớn tấn công có trọng điểm vào các khu vực giải phóng của ta như Sa Huỳnh, Bắc Công Tum, Chư Nghé, Kiến Đức, Quảng Đức, Nam Bắc lộ 4 ở Mỹ Tho, Chương Thiện, Núi Dài, Tri Tôn, lấn chiếm hầu hết các vùng ta mới giải phóng trong đợt hoạt động tháng 1 năm 1973, chiếm thêm một số lơm giải phóng của ta.". Trần Văn Trà cũng viết tương tự trong Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm.

T́nh trạng này đă khiến Bắc quân lo ngại, các tướng Vơ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng đă đích thân nghiên cứu các kế hoạch hành quân chiếm lại đất nhưng vô hiệu. Mùa thu năm 1974, CIA đă bắt được một số tài liệu trong đó có nghị quyết số 12 của Trung Ương Cục Miền Nam và nghị quyết số 21 của đảng Cộng sản. Trong những tài liệu này, trung Ương Cục Miền Nam báo cáo họ chỉ kiểm soát được 12% dân số và 1/5 diện tích miền Nam Việt Nam.

Văn Tiến Dũng viết: "Trước t́nh h́nh nghiêm trọng do địch gây ra, Hội nghị lần thứ 21 của Trung Ương Đảng họp tháng 10 năm 1973 đề ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao và chỉ rơ: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng"...". Trần Văn Trà cũng nhấn mạnh "chỉ có con đường bạo lực cách mạng của nghị quyết 21 của Đảng Cộng Sản Việt Nam". Văn Tiến Dũng viết: "Từ tháng 10 năm 1973 trở đi, lần lượt các quân đoàn được thành lập, tập trung huấn luyện tác chiến hợp đồng binh chủng và bố trí trên các địa bàn chiến lược cơ động nhất." (trang 19)

Đến cuối năm 1974, sự rút viện trợ quân sự Mỹ bắt đầu có hiệu quả. Nam quân yếu thế dần và cục diện chiến tranh chuyển hướng. Bắc quân bắt đầu thắng thế.

 Văn Tiến Dũng viết: "Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân của hắn chuyển sang tác chiến "kiểu con nhà nghèo": Theo tài liệu của chúng th́ chi viện hỏa lực giảm sút gần 60 phần trăm v́ thiếu máy bay, thiếu xe, thiếu cả nhiên liệu. T́nh trạng đó buộc chúng phải chuyển từ hành quân lớn, tiến công nhẩy sâu bằng máy bay lên thẳng, xe tăng sang pḥng ngự chốt, lấn dũi, lùng sục nhỏ." (trang 25)

Ở mặt trận Nam phần, quân khu 9 của Bắc quân đă bắt đầu đánh bại các cuộc hành quân chiếm lại đất của Nam quân. Quân khu 7 của Bắc quân giữ vững bàn đạp phía Bắc Sàig̣n. Quân khu 5 của Bắc quân tiến đánh nhiều nơi ở Tây Nguyên.

 Trong tháng 12/1974, tất cả những thành phần cao cấp nhất trong chính trị và quân đội miền Bắc họp tại Hà Nội. Cuộc họp của Bộ Chính Trị kéo dài từ 18/12/1974 đến 8/1/1975. Giữa lúc Bộ Chính Trị đang họp th́ tin chiến thắng Phước Long đưa về, và miền Bắc yên tâm là Mỹ không can thiệp vào t́nh h́nh Việt Nam nữa. Lê Duẩn quyết định Tiến công lớn năm 1975 tạo điều kiện bất ngờ để năm 1976 tiến hành Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa.

Về mặt chiến thuật, miền Nam chia lănh thổ thành 4 vùng quân sự chính trị gọi là 4 vùng chiến thuật:

- Vùng I Chiến Thuật gồm các tỉnh phía Bắc, từ Quảng Trị đến Quảng Ngăi. Vùng này do Quân Đoàn I phụ trách, dưới sự điều khiển của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

- Vùng II Chiến Thuật gồm đất Cao Nguyên Kontum, Pleiku, Đắc Lắc và các tỉnh từ B́nh Định đến B́nh Thuận, do Quân Đoàn II đảm nhiệm, với tư lệnh là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.

- Vùng III Chiến Thuật gồm Sàig̣n và các tỉnh xung quanh, phía Bắc tới Phước Long, phía Đông đến B́nh Tuy, phía Nam đến Long An, do Quân Đoàn III phụ trách dưới sự điều khiển của Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.

- Vùng IV Chiến Thuật gồm các tỉnh phía Nam từ Đồng Tháp Mười đến Mũi Cà Mau, do Quân Đoàn IV phụ trách, dưới quyền tư lệnh của Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Quân đội miền Nam đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư Lệnh là Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, với Bộ Tham Mưu do Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tham Mưu Trưởng.

Theo Nguyễn Khắc Ngữ, Bắc quân chia chiến trường miền Nam thành 7 quân khu: Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5: phần c̣n lại của miền Trung, Quân khu 6: các tỉnh Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận và B́nh Thuận, Quân khu 7: miền Đông Nam Bộ, Quân khu 8: các tỉnh ở miền Tiền Giang, Quân khu 9: các tỉnh ở miền Hậu Giang và Trung Ương Cục Miền Nam điều khiển toàn thể chiến trường miền Nam. Mỗi quân khu có một đảng ủy mặt trận và một bộ tư lệnh quân khu chỉ huy. Hai quân khu giữ địa vị chiến lược quan trọng nhất trong trận tuyến đầu năm 1975 là quân khu Trị Thiên (gồm hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và Thị Xă Huế) do Thiếu Tướng Lê Tư Đồng làm Bí Thư Đảng Ủy kiêm Chính Ủy, và quân khu 5 (gồm các tỉnh duyên hải miền Trung từ Quảng Nam đến Khánh Ḥa và các tỉnh Tây Nguyên) do Thượng Tướng Chu Huy Mân làm Bí Thư Đảng Ủy kiêm Tư Lệnh Quân Khu và Vơ Chí Công làm Chính Ủy.

Các lực lượng chính quy thu nạp thẳng từ trong Nam gọi là Bộ đội Miền hay Bộ đội Nam Bộ. Bộ đội Nam Bộ do tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh và Phạm Hùng làm chính ủy.

 Lực lượng chính quy Bắc quân được phân phối như sau:

- Quân đoàn I ở ngoài Bắc.

- Quân đoàn II do tướng Nguyễn Hữu An làm tư lệnh, Lê Linh làm chính ủy, gồm 3 sư đoàn 304, 324 và 325, hoạt động ở khu Trị Thiên và Bắc Cao Nguyên.

- Quân đoàn III do tướng Vũ Lăng làm tư lệnh, Nguyễn Hiệp làm chính ủy, gồm các sư đoàn 320, 10 và 316, hoạt động ở Cao Nguyên.

- Quân đoàn IV do Thượng Tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh, Phạm Hùng làm chính ủy, gồm các sư đoàn 3, 5 và 7, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Miền.

Ngoài ra mỗi tỉnh đều có lực lượng dân quân và Du kích quân, đặt dưới quyền của bộ chỉ huy tỉnh gọi là Tỉnh Đội Dân Quân Du Kích. Quân đội miền Bắc đặt dưới quyền điều khiển của Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội, với Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng, kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội và Văn Tiến Dũng làm Tổng Tham Mưu Trưởng. Pḥng tuyến của Nam quân mạnh ở hai đầu và yếu ở giữa. Vùng II chiến thuật chỉ có 2 sư đoàn bộ binh 22 và 23 mà sư đoàn 22 đă bị cầm chân ở B́nh Định để pḥng thủ các tỉnh duyên hải. C̣n lại sư đoàn 23, đồn trú tại Cao Nguyên, do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường làm tư lệnh. Bộ tư lệnh sư đoàn 23 đặt tại Ban Mê Thuột.

Bộ tham mưu của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dự trù Bắc quân sẽ đánh Tây Ninh, nên không lo pḥng thủ vùng II và t́nh báo Bắc quân tại Dinh Độc Lập biết được chiến lược đó. V́ thế Bộ tham mưu miền Bắc quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên. Sợ Vũ Lăng không đủ uy tín phối hợp quân, Trung Ương cử Văn Tiến Dũng làm Tổng Tư Lệnh mặt trận Tây Nguyên.

Theo kế hoạch của Vơ Nguyên Giáp, Bắc quân đặt nghi binh để địch tập trung pḥng thủ Bắc Tây Nguyên, vùng Kontum, Pleiku, rồi tấn công Ban Mê Thuột.

Sau kinh nghiệm thất bại ở Tây Nguyên năm 1971 và ở Quảng Trị năm 1972, Tướng Văn Tiến Dũng vẫn c̣n e ngại quân đội miền Nam. Ngày 1/3/1975, Văn Tiến Dũng hạ lệnh cho sư đoàn 968 tấn công Nam quân trên quốc lộ 19bis, phía tây Pleiku, áp sát quận lỵ Thanh An và liên tiếp mấy ngày sau đó, tấn công các vị trí Nam quân trên quốc lộ 19. Chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu.

Quả nhiên Nam quân dồn lực lượng quân đoàn II lên bảo vệ Kontum, Pleiku. Ba giờ sáng ngày 10/3/1975, Bắc quân tiến đánh Ban Mê Thuột. Mặc dù bị tấn công bất ngờ và quân pḥng thủ ít ỏi, các lực lượng của sư đoàn 23 đă chống trả dữ dội. Trận chiến xẩy ra ác liệt trong ba ngày, từ 10/3 đến 13/3. Sau cùng Bắc quân chiếm được Ban Mê Thuột và tỉnh Đắc Lắc.

 

Sau thất bại này, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định triệt thoái Cao Nguyên. Khi tin rút quân bay ra, dân chúng khắp nơi trên Cao Nguyên t́m mọi cách di tản theo quân đội. Đường liên tỉnh lộ số 7, nối liền Pleiku với Tuy Ḥa được chọn làm đường rút quân, trở nên một đại lộ kinh hoàng, mà dân chúng và quân đội tranh nhau t́m đường thoát dưới kích pháo của Bắc quân. Quân đoàn II gần như tan ră.

 Vùng 1 chiến thuật do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cầm đầu. Ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi của miền Nam. Quân đoàn I gồm 3 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 1 đóng tại Quảng Trị, Thừa Thiên, sư đoàn 2 đóng tại Quảng tín và Quảng Ngăi và sư đoàn 3 đóng tại Quảng Nam. Thêm vào đó có hai sư đoàn trừ bị là sư đoàn nhảy dù và sư đoàn Thủy quân lục chiến, những đơn vị thiện chiến nhất của miền Nam. Ngoài ra c̣n có 4 liên đoàn Biệt động quân và các lực lượng yểm trợ: Pháo binh, Thiết giáp, Hải quân và Không quân.

Về phía Bắc quân, quân khu Trị Thiên do Tướng Lê Tư Đồng làm tư lệnh, được coi như một đơn vị đặc biệt trực thuộc Trung Ương Hà Nội, về chính trị cũng như về quân sự. Chiến dịch đánh Trị Thiên đă được soạn thảo từ tháng 12/1974. Đến tháng 2/1975 phải soạn thảo lại và Trung Tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham Mưu Phó ở Hà Nội trực tiếp điều khiển mặt trận Trị Thiên.

Các trận đánh then chốt của chiến trường Trị Thiên bắt đầu từ ngày 8/3/1975. Trọng điểm của chiến trường, đối với Bắc quân là chiếm đường 14, ở phía Nam thành phố Huế, để tiến đánh Thừa Thiên. Đường 14 là một vị trí quan yếu, Nam quân đă để 2 trung đoàn 1 và 54 ở đó bảo vệ. Thung lũng đường số 14 là một thung lũng hẹp, ở đó, Trung đoàn 1 bộ binh đă dựa vào hai đỉnh núi Nghệ và núi Bông cùng các ngọn đồi 224, 303 để lập 3 tuyến cản địch. Bắc quân cho sư đoàn 324 tấn công vào khu vực núi Bông, núi Nghệ và Mũi Tàu. Các đơn vị Nam quân chống trả mănh liệt. Cao điểm 224 được hai bên dằng co chiếm đi chiếm lại trong những điều kiện gay go nhất. Xuân Thiều viết: "Trên thực tế th́ sư đoàn 324 đă phải đột phá vào một tuyến pḥng ngự vào loại mạnh nhất, kiên cố và dầy đặc nhất, trong phạm vi trách nhiệm chiến thuật của Sư đoàn 1 bộ binh Ngụy." Các mặt trận trên đồng bằng phía Bắc Hải Vân cũng xẩy ra vô cùng dữ dội. Hai bên đều bị thiệt hại nặng nề.

Sau chiến thắng Tây Nguyên, Bắc quân thấy thời cơ đă thuận lợi, ngày 18/3/1975 quyết định Tổng Tấn Công. Đánh Quảng Trị. Đánh Huế. Và đánh Phú Lộc. 14g30 ngày 19/3 tiến đánh Huế. Đêm ngày 19/3 tấn công Quảng Trị. Và ngày 20/3 tiến đánh Phú Lộc.

Trong lúc mặt trận Trị Thiên đang gay go th́ ngày 13/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Ngô Quang Trưởng phải trả Sư đoàn dù về Sàig̣n, chỉ để lại Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở Vùng I. Và nếu cần th́ triệt thoái khỏi Trị Thiên, giữ từ đèo Hải Vân trở vào. Và ngày 19/3 tướng Trưởng được triệu về Sàig̣n lần nữa, và lần này ông biết ư định của Nguyễn Văn Thiệu muốn rút cả sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về Nam. Thiếu hai sư đoàn thiện chiến này th́ không thể giữ nổi Trị Thiên. Để phản đối lệnh rút quân, tối ngày 20/3, Ngô Quang Trưởng đánh điện về Sàig̣n xin từ chức. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận. Ngày 23/3/1975 Ngô Quang Trưởng phải chấp hành lệnh rút quân.

 

Bắc quân chiếm Huế ngày 25/3/1975. Sự rút quân ở Quảng Trị, Thừa Thiên về Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng về Nam cũng xẩy ra trong những điều kiện kinh hoàng. Dân chúng lượt di tản theo quân đội. Các cửa biển Thuận An, Đà Nẵng đă bầy ra những bối cảnh máu và nước mắt hăi hùng, bi thảm như cảnh trên liên tỉnh lộ 7. Không c̣n quân, cận vệ cũng đă đi mất, Tướng Ngô Quang Trưởng, không biết bơi phải nhờ người kéo ra tầu đậu ngoài khơi Đà Nẵng.

 Thủy quân lục chiến c̣n cầm cự ở những căn cứ cuối cùng: Đèo Hải Vân và bán đảo Sơn Trà. Nhưng đến 30/3 th́ Đà Nẵng cũng về tay Bắc quân. Trong khi đó, nhiều đơn vị Nam quân ở Quảng Nam, không biết tin, vẫn tiếp tục chiến đấu thêm nhiều ngày sau nữa.

 Cùng ngày 25/3 chiếm Huế; ở mặt trận phía Nam, Bắc quân tiến đánh B́nh Định: Trung đoàn Tây Sơn tấn công Qui Nhơn nơi sư đoàn 22 trấn giữ. Trận chiến diễn ra khốc liệt ở quân cảng Qui Nhơn, đường Gia Long, ở khu nghĩa địa gần đường Nguyễn Huệ và bờ biển.

 Đến ngày 1/4/1975, Bắc quân chiếm được B́nh Định. Tiến vào Nha Trang, tiến đánh Cam Ranh không gặp trở ngại ǵ. Ở miền Nam Trung phần, sau thất bại của Quân đoàn II, các tỉnh Ninh Thuận, Phan Rang, Phan Thiết đă được sát nhập vào vùng III chiến thuật là ba nơi Nam quân c̣n cầm cự từ đầu tháng tư cho đến cuối tháng tư, dưới quyền tư lệnh của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

Sau chiến thắng miền Trung, ngày 9/4/1975 Bắc quân mở chiến dịch Hồ Chí Minh do Tướng Văn Tiến Dũng làm tư lệnh để tấn công Sàig̣n. Chiến dịch này gồm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn I từ 9/4/1975 đến 25/4/1975: Bộ Đội Nam Bộ tấn công các tỉnh bảo vệ ṿng ngoài Sàig̣n, thuộc vùng chiến thuật III.

- Giai đoạn II từ 26/4 đến 28/4: tấn công các tuyến sát đô thành Sàig̣n, phối hợp với các đơn vị ở Bắc và Trung vào.

- Giai đoạn III từ 29/4 đến 30/4: tổng tấn công Sàig̣n.

Trong giai đoạn đầu, mục tiêu chính của chiến dịch là 3 tỉnh Long Khánh, B́nh Dương và Tây Ninh, nằm trên ṿng đai ngoài của Sàig̣n. Văn Tiến Dũng bố trí các mặt trận như sau: Mặt trận phía Đông đánh vào Xuân Lộc. Mặt trận phía Bắc đánh vào B́nh Dương và B́nh Long. Mặt trận phía Tây đánh vào Long An và Hậu Nghĩa. Nhưng sư đoàn 18 của Nam quân, do chuẩn tướng Lê Minh Đảo làm tư lệnh trưởng, Nguyễn Xuân Mai tư lệnh phó và Đại tá tỉnh trưởng Xuân Lộc Phạm Vĩnh Phúc đă đẩy lui được sức tiến của Bắc quân do tướng Hoàng Cầm, tư lệnh mặt trận chỉ huy. Không chiếm được Xuân Lộc, Bắc quân ṿng qua Xuân Lộc để tiến về phía Trảng Bom, Long B́nh và Biên Ḥa.

Sư đoàn 18 và Lữ đoàn III dù, rút về giữ Trảng Bom và Tổng Kho Long B́nh.

Ngày 21/4, Bắc quân tiến đánh Trảng Bom nhưng lực lượng pḥng thủ ở đây (gồm trung đoàn 43, sư đoàn 18 bộ binh và chiến đoàn 22 thiết giáp) đă chống cự mănh liệt, nên Bắc quân dù mở nhiều đợt tấn công vẫn không chiếm được.

 

Ở mặt trận phía Bắc Sàig̣n, Bắc quân đă tiến đánh B́nh Long và bao vây tỉnh lỵ An Lộc. Sư đoàn 5 của Nam quân do Đại tá Lê Nguyên Vĩ làm tư lệnh, rút lui khỏi An Lộc an toàn để về giữ pḥng tuyến Chơn Thành, một quận lỵ thuộc tỉnh B́nh Long. Tại đây sư đoàn 5 đă chặn đứng sức tiến của Bắc quân đến Lai Khê, cho đến ngày 30/4/1975.

Trên mặt trận Tây Bắc Sàig̣n, sư đoàn 25 bộ binh do Chuẩn tướng Lư Ṭng Bá làm tư lệnh, đóng tại Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa, cũng giữ được pḥng tuyến đến ngày 27/4 mới bị phá vỡ.

Giai đoạn II của chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ 17 giờ ngày 26/4/1975. Quân đoàn II của Bắc quân tấn công căn cứ Nước Trong, Long Thành, nơi có Trường huấn luyện Bộ Binh và Trường Thiết Giáp. Sự chống trả của hai đơn vị này rất quyết liệt; trong 3 ngày, Bắc quân không hạ được tuyến này. Trong khi ấy một cánh quân khác tiến đánh Chi Khu Long Thành, chiếm được quận lỵ.

Một cánh quân của binh đoàn IV tiến đánh Phước Tuy rồi tấn công vào thị xă Phước Lễ. Chiếm xong Phước Lễ, đánh xuống Vũng Tàu. Thủy Quân Lục Chiến đă chiến đấu gan dạ, nhưng cuối cùng cũng phải rút ra biển.

Sau Xuân Lộc, Nam quân trở về giữ Biên Ḥa. Bắc quân pháo kích vào phi trường Biên Ḥa. Ở cầu Long B́nh, hai bên chiếm đi chiếm lại nhiều lần trong suốt hai ngày 28 và 29 tháng 4. Sáng ngày 28 tháng 4, Tư lệnh quân đoàn III, tướng Nguyễn Văn Toàn đă bỏ đi. Quân đoàn III di tản bộ tư lệnh về Sàig̣n. Bắc quân chiếm Biên Ḥa và Long B́nh không gặp trở ngại ǵ.

Từ 3 giờ sáng ngày 27/4, Bắc quân đă cắt đứt đường số 4, nối Sàig̣n với các tỉnh miền Tây. Nam quân phải tung 3 sư đoàn chủ lực cuối cùng của vùng IV chiến thuật do Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam chỉ huy, sư đoàn 7, 9 và 21, vào mặt trận phía Nam Sàig̣n, để bảo vệ đường số 4, tạo khoảng trống lớn ở biên giới Việt Miên. Do đó Bắc quân vượt sông Vàm Cỏ Đông về đồn trú tại phía Tây Nam Sàig̣n, chuẩn bị tổng tấn công Sàig̣n.

Trong khi ấy ở Sàig̣n, ngày 20/4/1975, Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin chuyển cho Nguyễn Văn Thiệu tối hậu thư của chính phủ miền Bắc. Nội dung đại ư nói: Từ nửa đêm 21/4/1975 hoặc Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức hoặc miền Bắc sẽ tấn công Sàig̣n.

Không c̣n cách nào khác, Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận từ chức 2 giờ trước khi tối hậu thư hết hạn. Trần Văn Hương, phó tổng thống lên thay. Nhưng miền Bắc không chịu điều đ́nh với Trần Văn Hương, viện cớ Trần Văn Hương là "bù nh́n" của Nguyễn Văn Thiệu.

Sau cùng, ngày 28/4/1975, Quốc hội cử Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống để đứng ra "điều đ́nh" với miền Bắc. Nhưng miền Bắc không chấp nhận điều đ́nh mà đ̣i hỏi một sự đầu hàng vô điều kiện.

Giải pháp Dương Văn Minh đă tránh được trận đánh cuối cùng: Trận Sàig̣n, tiết kiệm nhiều xương máu.

Ngày 30/4/1975, Bắc quân tiến vào Sàig̣n. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng II chiến thuật, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh vùng IV chiến thuật, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó vùng IV chiến thuật, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh và Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh tuẩn tiết. Việt Nam chấm dứt cuộc chiến 30 năm.