Chuyện tàu
Trường Xuân
Tháng 11/1974, tàu Trường Xuân ra Hòn Khói lấy
muối để chở đi Singapore. Gió Đông Bắc
thổi mạnh, lùa từng cơn gió giật vào vịnh,
khiến những ghe nhỏ không thể cặp vào tầu
để vợi muối. Số muối dự
định chở sang Singapore phải bỏ lại
đến 1 phần 3.
Tàu Trường Xuân rời Việt Nam đang
lúc tình hình chiến sự nghiêm trọng. Giao kèo chuyên
chở hàng hóa trong vùng Đông Nam Á đến hết tháng
6/75 mới có thể trở về Việt Nam. Tôi thật
sự lo lắng miền Nam không thể đứng
vững, vì đồng minh đã bỏ chạy, còn Bắc
quân có cả một hậu phương rộng lớn:
Trung Cộng và các nước trong khối Liên Xô.
Trường Xuân đến Singapore, ghé Bangkok,
rồi đi Phi Luật Tân… Hết Cebu đến Manila, qua
Ternate Nam Dương rồi đến Balik Papan thuộc
Borneo. Tình hình đất nước ngày một khẩn
trương. Qua đài BBC, VOA, hết Quảng Trị,
Đà Nẵng, Qui Nhơn, đến Nha Trang, miền Cao
Nguyên Trung Phần rơi vào tay Cộng Sản. Quân
đội miền Nam tiếp tục di tản, cảnh dân
chạy loạn thật hỗn loạn, bi thảm.
Những sà lan, những ghe thuyền chở đồng bào
tị nạn từ miền Trung trôi dạt ngoài biển,
không lương thực, không nước uống.
Hình ảnh những bao rác đựng xác trẻ
con đem từ các sà lan xếp thành hàng dài ngoài bãi biển
Vũng Tàu cùng những hình ảnh bầy trẻ lạc cha
mẹ trong các trại tị nạn đã gây nhiều bàng
hoàng và xúc động mãnh liêt.
Tôi không phải là một sĩ quan trong quân
đội cầm súng chống quân thù. Tôi là một nhà hàng
hải, có thể giúp được gì cho Quê Hương,
cho đồng bào trong cảnh khói lửa điêu linh này? Tôi
rất muốn được giúp đồng bào tôi,
được cùng chia xẻ với đồng bào trong
giờ phút đau thương này. Ngồi trên con tàu cách xa
quê hương ngàn dặm mà lòng tôi bồn chồn như
lửa đốt…Tôi cố hồi tưởng và viết
lại những sự kiện đã giúp cho 3628 đồng
bào chúng tôi bất chấp hiểm nguy, cùng nhau vượt
biển khơi để tránh khỏi rơi vào tay Cộng
Sản và đi tìm Tự Do. Sau đây là diễn tiến
của nhiều việc đã đưa đến
chuyến đi định mệnh của tàu Trường
Xuân. Những sự kiện mà sau này lúc ngẫm nghĩ
lại thì tôi thấy dường như đã
được sắp đặt một cách huyền
diệu để đưa tàu Trường Xuân ra khơi,
để thử thách mọi người trên tàu phải
phấn đấu để đạt được
niềm ước vọng quí giá là hai chữ Tự Do.
Bến kho 5 Khánh
Hội Sàigòn, 30/4/1975
Tàu Trường Xuân rời bến Kho Năm,
Khánh Hội, Saigon hồi 1 giờ 25 phút trưa ngày 30/4/1975
sau khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng, và quân Cộng sản tiến chiếm Saigon
hồi 10 giờ sáng…
(1) Ngày 3/4/75, đài phát thanh Úc loan tin: “Quân
đội Cộng sản còn cách Thủ đô Saigòn 60 cây
số và đang tiến về Thủ đô không gặp
sự kháng cự nào.” Tàu cặp bến Pare Pare, tôi loan tin
trên cho thủy thủ đoàn. Tất cả đều
muốn về với gia đình. Tàu Trường Xuân
quyết định chỉ ghé Singapore lấy hàng rồi
quay trở về Saigon.
(2) Lúc ghé Singapore, Cơ khí trưởng tàu
Trường Xuân đi phố chơi, ăn nhậu say, khi
về đến cổng thương cảng thì bị
vấp ngã, bị thương ở đầu bất
tỉnh nhân sự. Cảnh sát phải chở đi nhà
thương điều trị. Tàu Trường Xuân về
đến Saigon, Cơ khí trưởng xin tạm nghỉ
việc để điều trị vết thương.
Vị Cơ khí trưởng này thường phát biểu ý
tưởng có nhiều thiện cảm với phe bên kia cho
nên tôi nghĩ rằng nếu anh ta không gặp tai nạn thì
đến ngày 30/4 chưa chắc anh ta đã chịu
xuống tàu để di tản và đến giờ phút
cuối cùng thì không dễ gì tìm được một
người Cơ khí trưởng.
(3) Tàu Trường Xuân về đến Saigon
ngày 17/4/75, cặp bến Thương cảng Khánh Hội
gặp nước ròng nên tàu cặp bến quay lái (phía sau
tàu) ra biển. Tàu đã đến hạn lên ụ
để tu sửa đại kỳ hàng năm. Vì công
xưởng hải quân bận việc nên tàu chỉ tu
sửa những bộ phận cần thiết ngay tại
bến thay vì nằm ụ cả tháng trời. Tàu lấy
hàng 300 tấn sắt vụn, lấy 80 tấn dầu, 100
tấn nước ngọt và 10 bao gạo để
chuẩn bị đi Manila. Tàu có thể khởi hành ngày
24/4/75 nhưng tôi nấn ná chưa khởi hành vì tình hình
đất nước mỗi ngày một nghiêm trọng…
(4) Tôi xin Công Ty Vishipco tuyển dụng Cơ khí
trưởng Lê Hồng Phi. Mãi đến sáng ngày 29/4/75 Công
Ty mới chấp thuận cho Cơ khí trưởng Phi
nhận việc.
(5) 5 giờ chiều ngày 29/4/75, tôi xuống tàu
không gặp Cơ khí trưởng Phi, và sĩ quan phụ tá
cho biết là Phi đã về nhà đưa gia đình ra
bến thương cảng để cùng di tản. Tôi dùng
phấn viết lệnh rời bến lên bảng đen
cho thủy thủ đoàn: “Tàu rời bến ngày 30/4/75
hồi 11:30 sáng.”
(6) 6 giờ sáng 30/4/75, Trần Khắc Thuyên
chở tôi ra tàu cùng với Phạm Trúc Lâm. Đường
sang thương cảng Khánh Hội bị chắn
nhiều khu phố. Sau khi quan sát tàu, Thuyên đưa tôi
về nhà để hướng dẫn hai xe GMC chở
khoảng 200 người gồm gia đình, thân nhân và bà con
lối xóm, ra thương cảng…
(7) Bình thường trước khi tàu khởi
hành, sĩ quan phụ tá phải cho thử tay lái trên đài
chỉ huy để bảo đảm chạy tốt, và
chính tôi cũng thân hành tự kiểm soát lại. Tuy nhiên
sáng 30/4/75, tôi nhớ là đã tự nhủ phải đi
kiểm soát lại tay lái xem có gì trục trặc không,
nhưng tôi lại quyết định không thử tay lái vì
bụng bảo dạ: “Giờ này mà còn đi lo những
việc nhỏ… Cộng quân đã tiến vào Saigon rồi…
Việc thử tay lái đã có sĩ quan phụ tá lo…”
Rồi tôi lại tự trách sao lại đi lo những
chuyện không đáng lo. Và thực ra không hiểu vì sao chính
sĩ quan phụ tá lần đó cũng quên thử tay lái
trước khi nhổ neo, vì nếu được
biết trước tay lái đã bị hỏng hay bị
phá hoại thì tôi đã không dám cho tàu rời bến.
(8) 9 giờ sáng, Sĩ quan Vô tuyến
điện Nguyễn Văn Diệt yêu cầu tôi ra
cổng thương cảng để can thiệp với
nhân viên cảnh sát gác cổng cho gia đình anh vào trong lên tàu
để di tản. Ra đến cổng thì thấy
đồng bào chạy nhớn nhác như một
đại nạn đang ập đến. Không thấy
gia đình, Diệt xin nghỉ ở lại tìm gia đình…
Một thủy thủ đoàn tối thiểu
phải có Thuyền Trưởng, Cơ khí trưởng và
Sĩ quan Vô tuyến, nhưng bây giờ Sĩ quan Vô
tuyến đã xin ở lại. Tôi đành phải chấp
thuận vì biết dù có ra lệnh buộc anh phải đi
cũng chẳng được… (Ba năm sau anh Diệt di
tản bằng thuyền, định cư ở vùng
Virginia. Sau bị tai nạn xe cộ đã mất.)
Tôi buồn bã trở về tàu, trong lòng hoang mang
lo ngại vì không biết tìm đâu ra một Sĩ quan Vô
tuyến điện trong giờ phút này. Vừa về
đến tàu thì gặp anh Nguyễn Ngọc Thanh, Sĩ
quan Vô tuyến điện của một tàu khác đến
xin nhận việc.
Tôi mừng rỡ nhận lời ngay và thầm
cảm ơn Trời Phật sao đã khéo léo xếp
đặt. (Anh Nguyễn Ngọc Thanh đã mất tại
Pháp quốc.)
(9) Khoảng 12
giờ trưa, dân cũng như quân ào ào đổ
xuống tàu. Cầu thang để leo lên tàu đã bị
gãy. Cơ khí trưởng Phi báo tin tàu có thể khởi hành
và tôi ra lệnh khởi hành. Vừa mở giây buộc cho
tàu tiến nhẹ, bẻ nhẹ tay lái sang phải, tàu
chạy thẳng.
Tay lái không ăn! Tàu ngừng chạy, cặp
lại bến. Tôi mới nhận ra là tay lái đã bị
hỏng. Hệ thống tay lái dùng dầu ép để
điều khiển bánh lái, nhưng sau được
biết hệ thống điều khiển bánh lái đã
bị kẻ nào phá hoại trút dầu ra và cho nước
vào. Thật là một sự kiện kinh hoàng đến choáng
óc. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc hủy bỏ
chuyến đi…
Cơ khí trưởng sau khi xem xét lại hệ
thống lái, cho biết tay lái phòng hờ còn xử dụng
được. Trong suốt cuộc đời làm
Thuyền trưởng tôi chưa bao giờ phải xử
dụng tay lái phòng hờ, mà bây giờ lại không có
lấy được một người thủy thủ
biết lái. Chưa biết đối phó với tình
huống nan giải thì một người đứng
gần đó tự nguyện nhận điều khiển
tay lái phụ…
(10) Khoảng 13 giờ, nước bắt
đầu lớn – thủy triều lên. Tôi cho mở giây
ở phía lái tàu để tàu tự động xoay 180
độ trên sông, hướng mũi ra khơi… Ngay lúc tàu
vừa rời bến, một cơn gió nhẹ thổi
từ bờ đẩy tầu ra giữa sông. 13 giờ 25
tàu khởi hành. Từ đài chỉ huy, tôi ra lệnh lái tàu
qua một ống loa dài chừng 20 thước dẫn
đến người bẻ bánh lái ngồi trong một
cái chòi ở phía sau tàu. Lúc đầu tôi ra lệnh sang
phải 10 độ thì tàu lại hướng sang phía trái.
Tôi chợt nhận ra ngay là núm điều khiển tay lái
phụ chỉ ngược chiều với hướng tàu
chạy. Bắt đầu từ đó, muốn tàu sang bên
phải thì tôi lại ra lệnh ngược lại. Cứ
thế mà đi trên sông.
(11) Đến khúc sông rộng, tàu đang
chạy ngon trớn, bỗng Cơ khí trưởng hét lên
qua ống loa: “Thuyền trưởng cho bỏ neo ngay!
Phải ngừng máy đèn!” Ai bỏ neo bây giờ? Bỏ
neo rồi làm sao kéo neo lên? Máy tàu ngưng, tàu vẫn chạy
ngon trớn.
Đầu óc rối như tơ vò! Nhưng lúc
này cần phải bình tĩnh, không thể làm một
quyết định sai lầm. Tôi biết rằng không
thể bỏ neo ngay lúc này khi máy trên tàu bị hỏng và
sẽ không dùng máy để kéo neo lên được.
Cũng không thể để tàu chết máy nằm dọc
bờ sông vì khi nước triều xuống thì tàu sẽ
mắc cạn và tầu sẽ lật nghiêng. Cách còn lại
duy nhất mà tàu có thể tự cứu vãn là tìm cách cho tàu
lên cạn, mũi ghếch lên bờ, chân vịt chìm
dưới nước. Chờ máy sửa xong thì tàu sẽ
tự rút ra được.
Chiều xuống, tàu vẫn đâm mũi vào
bờ chờ sửa máy. Hỏa châu của Cộng sản
mừng thắng trận nổ vang rền, sáng rực khu
Rừng Sát. Tàu không thể rút ra được vì không còn
hơi ép cho nổ máy. Cái nguy căn bản nhất là không
còn hơi ép để cho chạy máy đèn. Máy đèn
chạy mới có thể có hơi ép làm nổ máy cái. Cơ
khí trưởng Phi cho biết nhân viên châm dầu đã
tự ý khóa hệ thống làm nguội máy đèn… Đây có
thể là một hành động vô ý thức hay là phá
hoại, nhưng tôi nghĩ bây giờ không phải là lúc xét
xử và điều tra mà phải làm sao cứu vãn
được con tàu.
Tàu ở tình trạng hiểm nghèo. Tôi đã
phải tự trấn an: “Cần bình tĩnh! Nếu tàu
nằm mắc cạn ở đây chắc chắn Cộng
sản sẽ bắt hết mọi người. Cùng lắm
chúng xử bắn mình là cùng…” Tự nhủ như thế
để tâm trí không bị rối loạn vì nếu làm
những điều sai lầm trong giờ phút này là mất
hết.
Tàu Trường
Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975
Tàu kéo Song An từ Vũng Tàu về đi ngang
vào đúng lúc này. Nhiều người lên tiếng kêu
cầu cứu nhưng Song An vẫn chạy thẳng. Trong
lúc đó có một chiếc tàu Hải quân nhỏ chạy
từ hướng Saigon đến. Tàu Hải quân thấy
vậy bèn nổ một phát súng thị uy. Tiếng nổ
ầm vang chấn dội lồng ngực, Song An quay
trở lại. Sau nhiều lần cố gắng kéo tàu
Trường Xuân giây kéo đều bị đứt.
Đến gần tối thì nước lớn, Song An
mới kéo được tàu Trường Xuân ra sông,
rồi tiếp tục kéo cho mãi đến 8 giờ ngày
1/5/75 mới tới Vũng Tàu.
(12) Rút kinh nghiệm di tản từ miền
Trung đã có bạo động trên những xà lan, cho nên tàu
vừa rời bến Saigon, tôi đã kêu gọi thành lập
Ban Trật tự và Ban Cứu thương. Nhờ sự
tận tâm của Ban Trật tự nên không xảy ra
bạo động. Nhờ Ban Cứu thương, đã có
em bé sinh ra trên tàu, giữa biển cả, được
mẹ tròn con vuông.
(13) Vừa tới hải phận quốc
tế, lệnh hạ khí giới được triệt
để tôn trọng. Tàu khởi hành ra khơi mà tám
cần trục kéo hàng vẫn chưa được hạ
xuống. Thật là may mắn khi chúng ta gặp biển
lặng và sóng êm. Nếu biển động những dây
buộc cần trục sẽ bị đứt. Cần
trục nặng cả tấn sẽ rớt xuống tàu và
nhiều người có thể bị thương hay
bị thiệt mạng vì tai nạn khủng khiếp này.
(14) Gần tối ngày 1/5/75, sau khi vớt
được anh Vũ Văn Thụ, tôi cảm thấy
yên tâm hơn. Tôi tin tưởng đồng bào đều
chứng kiến việc làm đầy thiện chí, lo
lắng cho sự an nguy của một nhân mạng, mà
mọi người cũng sẽ từ bỏ lòng vị
kỷ và nghĩ đến những người
đồng cảnh ngộ với mình.
Tàu Clara Maersk và
Trường Xuân
(15) Nhờ có Sĩ quan Vô tuyến gửi đi
những tiếng kêu cầu cứu nên con tàu thiên thần Clara
Maersk đã đến cứu và đưa chúng ta
đến bến bờ Tự Do.
(16) Ngày 2/5/75, khi tất cả mọi
người đã được chuyển sang tàu Clara
Maersk an toàn thì một người từ phòng máy đi lên,
thấy tôi vẫn đứng một mình trên đài chỉ
huy.
Lòng tôi vẫn luyến tiếc con tàu đã cứu
bao nhiêu đồng bào và gia đình mặc dù họ đã
phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ nguy
hiểm. Thân hữu này nhìn tôi với cặp mắt
thật buồn rồi nói: “Tôi vừa ở phòng máy lên,
phòng máy đã ngập nước. Thuyền trưởng
phải rời tàu ngay.” Nói xong anh lặng lẽ bước
sang tàu Clara Maersk.
Tôi đã đi nhiều nơi và gặp
nhiều thân hữu Trường Xuân, có để ý tìm
gặp vị thân hữu này nhưng vẫn chưa tìm ra.
o
o o
Hội Ngộ Trường Xuân 30 năm ở
Houston vào đúng ngày 30/4/2005, tôi đã gặp Đại Úy
Cơ khí trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người
đã tự nguyện xử dụng tay lái phụ.
Ngày 12/6/2006, tôi được gặp lại
Trưởng Ban Lực Lượng Đặc Biệt Bùi
Đăng Sự đi trên chiếc tàu Hải Quân nhỏ
từ Saigon chạy ra. Anh đã bắn phát súng thị uy
bằng súng phóng lựu M79, nên tàu Song An đã quay lại
đưa 3628 người chúng ta ra khơi. Anh Sự và
một số người trên tàu Hải quân đã lên tàu
Trường Xuân trong lúc tàu Song An buộc dây kéo tàu
Trường Xuân ra khỏi cạn.
32 năm đã trôi qua mà hình ảnh và diễn
tiến chuyến đi định mệnh của tàu
Trường Xuân vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Những
sự kiện dường như đã được
tiền định để cho tất cả chúng ta cùng
gặp nhau trên con tàu để phải cùng phấn đấu
và cùng đến được bến Tự Do.
2007
Phạm Ngọc Lũy