Chương 9- Vượt biên và trại tỵ nạn

Mùa hè năm 1983, quán Chim Sẻ chúng tôi đang buôn bán đắt khách th́ vào một buổi chiều có mấy người của quản lư thị trường quận 4 bước vào quán. Họ gọi thức ăn và bia rồi ăn uống nói chuyện với nhau ồn ào. Vợ chồng tôi nhủ thầm bàn này chắc phải cúng cô hồn cho họ.  Nhung lần này, sau khi ăn uống xong họ gọi tôi đến tính tiền. Tôi nói với họ hôm nay là tôi mời. Họ không chịu và nhứt định trả tiền cho tôi nhưng bảo tôi đưa họ biên lai tính tiền. Khi họ ra về th́ tôi linh tính chắc có chuyện không lành sẽ xảy ra với chúng tôi.

Sáng hôm sau, phường 13 gọi vợ chồng tôi lên trụ sở phường "làm việc". Họ nói căn cứ theo sự điều tra của họ th́ quán tôi rất đắt khách nên thu nhập rất cao, v́ vậy tiền thuế phải đóng mỗi tháng tương đương 2 chỉ vàng. Đây là số tiền quá lớn đối với chúng tôi. Quán tôi phải thuê "mặt bằng" của người ta để bán. Ba năm nay, từ khi mở quán để bán, vợ chồng tôi kiếm được một ít tiền. Mỗi lần đủ một chỉ vàng th́ chúng tôi đến tiệm vàng Đức Tín sắm một chiếc nhẩn vàng y đeo vào tay. Đến nay, mỗi người chúng tôi đeo một. chiếc nhẩn hai chỉ. Vị chi tài sản chúng tôi hiện tại chỉ có 4 chỉ vàng. Nhà ở cũng phải thuê. Chúng tôi c̣n phải mướn cô Út, một người bà con của tôi coi giúp dùm hai đứa con nhỏ của tôi, vậy th́ lấy đâu ra tiền đóng thuế. Nếu tôi chấp nhận gíá thuế này th́ phải lấy tiền dành dụm đấp vào, như vậy chỉ vài tháng th́ chúng tôi sẽ trắng tay.

Chúng tôi không chấp nhân mức thuế này. Thế là họ bắt vợ chồng chúng tôi mỗi ngày hai buổi lên "làm việc". Chiêu tṛ của họ là khủng bố tinh thần của chúng tôi. Biết không c̣n đất sống ở đây nữa, tôi trả nhà lại cho bác Bạch Tuyết và nhờ Dũng làm cho một tổ chức vượt biên giúp đỡ chúng tôi đi.

Dũng là con của cô Bảy tôi. Cô tôi thấy t́nh cảnh của tôi quá bi đát nên nói với anh hai Minh là người đứng đầu tổ chức cho gia đ́nh tôi đi chỉ lấy trước mỗi người một chỉ vàng, khi nào sang được nước ngoài th́ sẽ trả tiếp phần c̣n lại.

Bây giờ là mùa mưa, biển động nhưng có một khoảng thời gian trong tháng 8 gọi là đồng chung, biển yên nên đi biển an toàn. Anh hai Minh quyết định "đánh" vào lúc đó.

Một tối tháng 8, thằng Tâm, người của anh hai Minh đến nhà tôi. Nó hỏi tôi biết vựa nước mắm gần hăng dệt 13 không? Tôi nói không biết. Tâm nói không sao sẽ đưa qua "kho” (chỗ ém người) khác. Nó dẫn chúng tôi vào một quán nước ở ngả ba đường Tôn Thất Thuyết và một hẻm lớn ngồi chờ và bỏ đi.

Một lát sau, Tâm trở lại dẫn chúng tôi đi vào một căn nhà sàn ven sông. Chúng tôi được đưa vào một cái buồng tối om trên mặt sông. Ở đó, đă có một số người ngồi chồm hỗm hay ngồi bệt  nhưng không cử động hay nói chuyện. Tâm nói với một người đàn bà có vẻ là chủ nhà : "chị Bảy, đây là gà của anh hai Minh". Chị Bảy chỉ chỗ cho chúng tôi ngồi và nói:"anh chị giữ giùm hai cháu nhỏ đừng để chúng khóc la". Hai đứa con tôi có vẻ như biết t́nh trạng hiện tại nên im lặng không la khóc hay nói chuyện.

Sau hai tiếng đồng hồ chờ đợi trong phập pḥng lo sợ, có tiếng chèo xuống đến gần. Mọi người như nín thở, cô Út em của chị Bảy đi ra phía sau nói chuyện với một người đang chống xuống vào. Tiếng người dưới xuồng nói thấp giọng đủ cho cô Út nghe:"Nước rút cạn quá, taxi (xuồng, ghe chuyển người ra tàu lớn) vô không được Út ơi". Cô Út nói:" Vậy phải xù kho này, C̣n kho bên vựa nước mắm đi chưa Giáp". Giáp trả lời:" Đưa hết ra "cá lớn" (tàu lớn ) rồi". Quay sang những người khách đi đang ngồi chờ cô Út nói nhỏ: " Bà con chuẩn bị đi về v́ không xuống taxi được. Lần sau ḿnh đánh tiếp. Hăy đi ra từng gia đ́nh hay từng người một để không bị chú ư." Tôi tuyệt vọng nh́n Giáp chống xuồng đi ra. Về sau tôi nghe nói chuyến đó được tàu Đan Mạch vớt và gởi những người vượt biên ở Singapore trước khi được các nước thứ ba nhận cho định cư. Giáp cũng leo lên tàu đi trong chuyến này.

Chúng tôi trở về nhà để chờ đợi chuyến đi sau. Lần sau thằng Mách cũng dẫn chúng tôi xuống kho của chị Bảy. Lần này, ngoài vợ chồng tôi và hai đứa con, c̣n có Thảo, em trai út của tôi và vợ chồng Nga, em vợ tôi và con là bé Phương. May mắn, lần này chúng tôi xuống được taxi. Mọi người chen chúc nhau trong chiếc xuồng có mui đi về hướng Nhà Bè. Khi taxi cập vào cá lớn, mọi người lần lượt được kéo lên tàu. Khi lên tàu có người hỏi: "gà của ai đây?" Nếu trả lời đúng tên của người gởi th́ được ở lại. ai trả lời sai hoặc không biết trả lời thế nào th́ bị trả xuống taxi. tôi nói đúng người gởi nên được ở lại trên tàu và cả gia đ́nh tôi bị tống xuống hầm tàu. Dưới hầm tàu mọi người ngồi chen chúc như cá trong hộp

Tàu bắt đầu chạy hướng về cửa  Vàm Láng. Nhưng vừa chạy không bao lâu, tôi nghe nhiều tiếng súng nổ phía sau tàu. mọi người hoảng hốt bảo nhau:'bể rồi, tàu bị bị rượt bắt". Là một cựu quân nhân tôi nhận ra tiếng départ của súng M79 và sau đó tiếng nổ sát phía sau lái. Nếu đạn đi xa hơn một chút rớt lên tàu và phát nổ th́ chắc mọi người trên tàu khó thoát chết.

Chủ tàu trên boong nói vọng xuống; "Tàu du kích đang rượt theo tàu ḿnh và bắn theo,. ḿnh đi không thoát đâu. bây giờ tôi cho tàu vào bờ, mạnh ai nấy  nhảy lên bờ chay trốn". Ông ta nói xong th́ cho mũi tàu quay vào bờ. Nhưng v́ nước ṛng nên từ tàu tới  bờ c̣n cả trăm thước bùn lầy phải vượt qua nên dù có tiếng người hối thúc"nhảy xuống đi", vẫn không có ai dại nhảy xuống làm mồi cho họng súng của du kích trước khi đến được bờ.. Cuối cùng tàu du kích áp sát tàu chúng tôi, vài tên du kích nhảy qua tàu tôi. thế là cả tàu bị bắt, không một ai thoát.

Một tên du kích lái tàu chúng tôi quay ra giữa ḍng sông. Mọi người trên tàu đều buồn rầu, không ai nói tiếng nào, thỉnh thoảng tôi nghe có tiếng ai đó thở dài. Chúng tôi không dám nghĩ đến ngày mai và những ngày tù tội sắp tới. Tôi đă ở tù cộng sản hơn hai năm trong nhũng trại có tên văn hoa là "học tập cải tạo" nhưng thực chất là một trại tù khổ sai. Lần này tôi sẽ phải trải qua địa ngục đó bao lâu nữa?

Tôi không biết tàu đă chạy bao lâu, chỉ biết tàu đă dừng lại. Tôi đứng lên ló đầu quan sát. Th́ ra tàu đang cập vào một cây cầu gỗ. V́ nước vẫn c̣n ṛng nên boong tàu thấp hơn cầu khoảng một thước. hai tên du kích đứng ở trên, kéo từng người lên cầu. Đứa con trai tôi đă 8 tuổi nên được kéo lên như người lớn. Riêng con gái tôi mới 4 tuổi nên một tên du kích đưa mũi súng để con tôi nắm và hắn kéo nó lên với sự phụ giúp của tôi bên dưới. Mặt cầu đầy bùn trơn trợt nên con gái tôi vừa ḅ lên cầu th́ bị tuột xuống. Nó sợ quá khóc to hơn. Cuối cùng nó cũng lên được trên cầu.

Khi tất cả mọi người lên được trên cầu th́ hai tên du kích, đứa trước đứa sau dẫn chúng tôi vào một trường học mà vách và nóc đều lợp bằng lá. Khi đi qua cổng tôi đọc được tấm bảng Trường Cấp 1 Xă B́nh Khánh. Bon du kích dồn tất cả mọi người vào một pḥng lớn. Một tên ngồi trên bàn, có một ngọn đèn dầu và một cuốn sổ. Một tên khác chỉ từng người đi lên bàn tên kia để hằn ghi tên. Khi lấy hết tên của mọi người th́ hắn đứng dậy đi ra cửa. Tên c̣n lại đến bàn ngồi để canh chúng tôi. Mọi người đă qua một ngày căng thẳng và mệt mỏi nên lăn đùng xuống mặt đất ngủ ngon lành.

Trời sáng dần, mọi người lần lượt thức giấc. Họ phát giác có vài người quen biết đă biến mất. Tôi hiểu ra đêm qua, lợi dụng đêm tối, vách trường học bằng lá và tên du kích canh gác ngủ gục nên có một số người đă vạch vách chun ra ngoài và trốn thoát. Tôi tiếc rằng ḿnh đă không nghĩ đến điều ấy. Tuy nhiên nh́n về phía vợ yếu và con thơ, tôi chắc rằng ḿnh sẽ không làm ǵ được. Chạy trốn một ḿnh th́ được, nhưng bỏ lại vợ con th́ tôi không an tâm. C̣n nếu cả gia đ́nh trốn đi th́ vướng chân, vướng tay mấy đứa nhỏ khó thoát. Thôi th́ chúng tôi đành phó mặc cho dịnh mệnh.

Bây giờ, xuất hiện ba bốn tên du kích khác. Chúng lùa chúng tôi ra ngoài sân trường, bắt ngồi xuống để chúng điểm danh. khi thấy thiếu một số người chúng dỡ giọng hăm dọa chúng tôi; " Có một số thằng bỏ trốn, nhưng không thoát đâu. Mấy người đừng tính chuyên đi trốn, nếu bị bắt th́ nhừ đ̣n". Tôi chợt thấy Thảo, em trai tôi đang dùng một que cây đào chôn một vật ǵ đó. Sau này tôi mới biết nó chôn một chỉ vàng mang theo để pḥng thân Cũng về sau tôi biết vợ tôi đă cất dấu chiếc nhẩn hai chỉ trong búi tóc để tránh bị bọn Việt cộng tịch thu.

Đám du kích lùa chúng tôi lên tàu của chúng tôi rồi mở máy chạy đi. Đến trưa chúng ngừng tại một bến ghe của một xă nào đó tôi không rỏ, để lại một tên ngồi ở mũi tàu canh chúng tôi, c̣n mấy tên khác bỏ lên bờ, chắc là đi ăn trưa. Bên cạnh tàu chúng tôi có một chiếc tàu của dân đi đánh cá. Một người trong chúng tôi tên Dồi thừa lúc tên gác không để ư, lăn qua chiếc tàu đánh cá và van xin người chủ tàu cho anh trốn lại trên tàu đánh cá. Anh chủ tàu từ chối nói không dám chứa chấp Dồi. Thất vọng, Dồi đành lăn trở về tàu ḿnh. Tôi chứng kiến cảnh này từ đầu đến cuối và nghĩ thầm: trong xă hội này, ai nấy lo giữ thân ḿnh chứ không thể gúp đỡ kẻ khác.

Tàu tiếp tục chạy tiếp đến tối th́ cặp bến một nơi nào đó có vẻ sầm uất. Có người cho biết đó là chợ Cần Thạnh thủ phủ của quận Cần Giờ. Mấy tên du kích giải chúng tôi đến khám đường Cần Giờ giao cho bọn công an ở đó. Chúng tôi bị chúng bắt ngồi xuống và gọi từng người vào cho tên công an chấp pháp thẩm vấn. Tiếng đánh đập, quát tháo của tên công an chấp pháp và tiếng la khóc của người bị thẩm vấn làm những người ngồi bên ngoài lo sợ cho bản thân ḿnh. Họ th́ thầm với nhau:"công an đánh để t́m chủ tàu, tài công và thợ máy".

May mắn khi đến phiên tôi bị thẩm vấn, tên công an chấp pháp không đánh tôi , không biết v́ hắn đă mệt hay v́ tôi lớn tuổi. Tôi cho tên, tuổi và địa chỉ giả. Khi bị hỏi có đi lính cho chế độ trước không th́ tôi trả lời là tôi trốn quân dịch. Khi tên công an chấp pháp hỏi tôi biết ai là chủ tàu, tài công hay thợ máy không th́ tôi trả lời rằng tôi là khách nên không biết ai hết chỉ biết người trung gian giới thiệu tôi đi chuyến này. Tên và địa chỉ của người trung gian cũng được tôi bịa ra. Tuy nhiên v́ bị đánh đau nhiều người đă khai ra hết.

Sau buổi thẩm vấn chúng tôi bị đưa vào pḥng giam. Gần 100 người nằm chen chúc với mấy chục người đă ở sẵn  trong đó. Những đứa con nít chịu không nỗi sự chật chội, nóng nực trong pḥng giam nên khóc la inh ỏi. Một tên công an đến mở cửa pḥng giam cho đàn bà và trẻ em ra ở ngoài sân.

Tôi khai là bác của hai đứa con tôi để tách hồ sơ ra riêng v́ nghe những người từng ở tù về tội vượt biên cho biết, đàn bà có con nhỏ sẽ được thả về sớm. Các con tôi tuy c̣n nhỏ nhưng rất thông minh nên luôn miệng gọi tôi là bác hai.

Mỗi ngày có một tên tù h́nh sự tên Mười là dân địa phương được cho phép ra chợ nên mọi người có thể gởi tiền cho hắn mua dùm thức ăn hay cá, thịt đem về.để ăn v́ nhà tù chỉ phát cơm không. Nhờ vợ tôi ở bên ngoài nên vào nhà bếp phía bên kia sân mượn bếp nấu nướng do đó t́nh trạng ăn uống của chúng tôi cũng không đến nỗi tệ lắm.

Đám tù đàn ông phải ra ngoài lao động từ sáng sớm đến chiều mới về trại. C̣n đàn bà và trẻ con th́ được ở nhà. Có một hôm tôi bị bệnh xin được nghỉ ở nhà một bữa. Tôi đang nằm trên vơng nghỉ ngơi th́ tên Ba Tâm, phó trại bước vào, tay cầm một que cây đập đập trên dây vơng hỏi tôi với một giọng xấc xược:’ Ê thằng này, sao mày không đi lao động?". Tên Ba Tâm tuổi chỉ ngang Thảo, em út của tôi nhưng láo lếu gọi tôi bằng mày. Tôi nén giận v́ biết ḿnh chỉ là một người tù, trả lời:”Báo cáo cán bộ, hôm nay tôi ốm có nói với anh đội trưởng xin được nghỉ một hôm.”, Ba Tâm hừ một tiếng: "Thế à!” rồi bỏ đi.

Gần một tháng sau ngày bị bắt, những người đàn bà có con nhỏ, trong số đó có vợ tôi được thả ra với những đứa con của họ. Khi chia tay, vợ tôi nói nhỏ với tôi nàng sẽ t́m cách lo cho tôi ra khỏi tù.

Tôi được biết tài công chuyến đi của tôi là Thành, hải quân thiếu tá bạn học của tôi thời tiểu học ở trường Cao Văn. Gia đ́nh anh ở đường Tôn Đản, quận 4. Sau khi anh có gia đ́nh th́ ra riêng ở Tân Định. Sau 75, vợ anh có một sạp bán tạp hóa ở chợ Tân Định, Vợ con anh cũng bị bắt trong chuyến này và được thả về một lượt với vợ con tôi. Sau khi đám đàn bà, trẻ con đi rồi, đêm đêm Thành và tôi ngồi bàn nhau t́m cách trốn trại. Chúng tôi quan sát việc canh gác của bọn công an. Khi khám phá ra rằng trại giam có thả một con chó berger canh chừng ban đêm th́ chúng tôi thấy rằng chuyện vượt rào không thể thực hiện được. Đành t́m cách khác vậy.

Hai tuần sau, vợ tôi và má tôi lên thăm nuôi tôi. Ở ngoài hàng rào, nàng chỉ vào một người đàn bà lạ mặt bên cạnh cho tôi biết và nói ǵ với bà ta và chỉ về phía tôi mà bà ta gật đầu lia lịa. Khi vào trong gặp tôi vợ tôi đưa cho tôi một số tiền khá lớn và bảo nhỏ với tôi: “ Trong này có một tên tù h́nh sự người Bắc 75 làm ở nhà bếp, anh cho tiền nó để nó dẫn anh trốn ra ngoài. Khi ra được bên ngoài, anh đi về hướng chợ, gặp cái hẽm đầu tiên hăy quẹo vô, nhà chị năm Mun ở cuối hẽm. Chị ấy sẽ t́m cách đưa anh về nhà,”

Một hôm, công an trại dùng tàu đưa một số tù chúng tôi vô Ruộng Muối để đào đất đáp nền nhà cho gia đ́nh một tên chỉ huy công an nào đó. Sau khi giao công việc cho chúng tôi, mấy tên công an áp tải chúng tôi bỏ đi vào nhà một tên du kích địa phương ở gần đó nhậu nhẹt.

Đang làm tôi thấy Dồi xin với anh tù trưởng toán đi vệ sinh. Nh́n theo, tôi thấy anh ta ngồi thụp xuống lùm cỏ sậy đầu bờ đê rồi lom khom bỏ chạy xa dần. Tôi biết là Dồi bỏ trốn. Một lát sau, một người khác cũng làm như vậy. Người thứ ba là Thảo, em tôi. Nhưng thay v́ bỏ chạy ngay, nó thụp lên, thụp xuống mấy lần và ra dấu cho tôi đi theo. Nhưng tôi lắc đầu. Nó đành lom khom bỏ chạy luôn.

Trước đó mấy ngày, có một tên tù h́nh sự trốn trại bị bắt lại. Anh ta có thân h́nh như một lực sĩ, Nhưng sau mấy ngày bị biệt giam và bi đánh bằng khúc gỗ một tấc vuông, anh ta trông như một bộ xương chỉ lết đi chứ không đứng vững. Tôi nghỉ để em tôi trốn đi một ḿnh, nếu nó bị bắt lại, nó c̣n có tôi lo cho nó. Chứ nếu cả hai trốn đi và nếu không thoát th́ ai lo cho chúng tôi?

Khi mọi người leo lên ghe để trở về, mấy tên công an đă sỉn nên không điểm danh. Tôi lanh trí dồn ba đôi dép c̣n lại của ba người trốn và ngồi bẹp lên đó để bọn công an không biết có người trốn. Nhưng về tới Cần Thạnh, khi mọi người lên bờ bọn công an mới phát giác có ba người trốn. Chúng chửi thề và quay tàu trở ra Ruộng Muối để t́m họ. Tôi lầm thầm van vái cho họ thoát nạn.

Sáng hôm sau, tên Mười đi ḷng ṿng trong trại loan báo là ba người trốn hôm qua đă bị bắt và đang bị giam ở đồn công an để điều tra, xong họ sẽ bị trả về trại giam. Nghe tin dữ tôi không cầm được nước mắt, lo cho số phận của em tôi. Nhưng nhiều ngày trôi qua, chúng tôi chẵng thầy người tù bỏ trốn nào bị đưa về trại. Th́ ra tên Mười loan tin vịt. Tên này là một thằng bưng bô cho bọn công an.

Sau vụ bỏ trốn của ba người tù ở Ruộng Muối. Trại ra lệnh cho B́nh, anh em bạn rể của tôi, được mở tiệm hớt tóc ở cạnh trại giam lấy tiền cho bọn công an, cạo trọc tất cả bọn tù đàn ông trong trại để nếu họ trốn trại sẽ dễ bị nhận diện. Tôi cũng bị thành ḥa thượng bát đắc dĩ.

Một bữa trưa gần giờ cơm, tôi gặp tên tù người Bắc nấu bếp bên trong pḥng giam. Tôi ngỏ cho nó biết ư định của tôi để nhờ nó giúp. Nó đồng ư và tôi đưa nó số bạc mà vợ tôi trao cho tôi hôm thăm nuôi. Một lát sau nó trở vô gặp tôi và bảo tôi ra nhà bếp. Nhà bếp nằm sát hàng rào, phía bên kia rào là thánh thất Cao Đài. Lúc đó không có ai trong nhà bếp. Tên người Bắc vach rào cho tôi chui ra ngoài. Không may, đùi tôi vướng kẻm gai lam rách quần và đùi tôi bị cào xước chảy máu. Mặc kệ, tôi đi nhanh ngang khu vườn của chùa Cao Đài để ra đường. Tôi đi ngang một ông đạo hữu Cao Đài đang cuốc đất. Ông ta ngẩng đầu nh́n thoáng qua tôi rồi cúi xuống cuốc tiếp như không thấy ǵ. Tôi thầm cám ơn ông v́ nếu ông ta tri hô lên th́ chắc chắn là tôi sẽ bị bắt lại.

Ra tới đường tôi đi về hướng chợ Cần Thạnh. Đi ngang một vúng nước, tôi xuống tóe nước lên đùi cho bớt máu. Nhờ tôi có đội nón nên chắc không ai nhận biết tôi là tù. Khi đi tới con hẽm đầu tiên, tôi vừa quẹo vào  th́ may mắn thay, một người đàn bà vừa từ trong một ngôi nhà bước ra và trông thấy tôi, Đó là bà năm Mun. Bà ta ngoắc tôi ra dấu bảo tôi đi nhanh lên. Tôi lẹ làng bước đến nhà bà và lách ḿnh qua cửa để vào trong nhà.

Vào nhà, bà năm Mun dẫn tôi vào trong buồng, giăng một chiếc vơng sát trần nhà và bảo tôi lên vơng nằm. Bà ta đi mua cho tôi một dĩa cơm sườn và một ly cà phê đá. Bà nói với tôi, đến tối chồng bà sẽ chèo ghe chở tôi qua Vũng Tàu. Đến chiều bà lại đi mua cho tôi một dĩa cơm và một ly trà đá. Sau khi ăn uống xong tôi nằm chờ trời tối. Bỗng nhiên có tiếng chân người đi vào nhà trước, Rồi tiếng hai người kéo ghế ngồi và tiếng nói chuyện. Bà năm Mun vào buồng kề tai tôi nói nhỏ:”Nguy rồi thằng rể của bà đang nhậu ở pḥng ngoài trước với một tên công an của trại giam. Rể của bà là tù h́nh sự trong trại giam, nhưng v́ hắn là dân địa phươngnên được cho ở ngoài đi làm ăn. Vừa rồi hắn và một số tù h́nh sự khác được thằng công an đó dắt lên Trị An lao động mấy ngày mới vừa về tới. Tôi phải chờ đến khi tan tiệc rượu của hai người mới đi được”.

Tim tôi đập mạnh v́ lo sợ. Chỉ có một tấm vách lá ngăn cách một tên tù và một gă cai tù. Tôi lại nghe hắn nói với rể của năm Mun:”ĐM, hồi trưa này, ở trại giam, lúc phát cơm có một tên tù vượt trại. Nếu tao bắt được nó th́ nó sẽ mềm xương”. Tôi nghe hắn nói vậy mà lạnh cả xương sống nghỉ tới cảnh ḿnh không may bị hắn bắt lại.

Bà năm Mun vạch màn đi vào buồng thấp vọng nói với tôi:”Không êm rồi, chú mày phải đi ngay kẻo thằng công an sinh nghi vào đây xét th́ nguy to”. Bà bảo tôi xuống, leo cửa sổ bên hông buồng ra ngoài và bà dắt tôi ra hướng biển. Tại đây ông năm Mun và người em rể đang chờ tôi trên một chiếc xuồng nhỏ. Tôi vừa xuống xuồng th́ họ lật đật chèo về hướng có nhiều đèn sáng: Vũng Tàu.

Hơn một tiếng sau, xuồng cặp vào Bến Đ́nh. Năm Mun và tôi lên bờ, c̣n em rể của ông ta quay xuồng chèo về Cần Giờ. Chúng tôi đi ngang một đồn công an biên pḥng. Năm Mun huưt sáo bản “Như có bác Hồ” chắc để lấy ḷng bọn công an trong đồn và để chúng không nghi ngờ chúng tôi. Đi ngang một ngôi nhà to lớn, khang trang Năm Mun chỉ và nói với tôi:”Nhà của thượng úy trưởng trại giam Cần Giờ đó”. Tôi cằn nhằn ông ta: ”Bây giờ mà c̣n nhắc đến trưởng trại giam làm ǵ. Ông định hù tôi sao?”. Năm Mum cười giả lả: “Nói cho chú biết thôi mà”. Năm Mun trước 75 là ĺnh thủy quân lục chiến nên chắc không ưa ǵ bọn công an.

Năm Mum dẫn tôi vào trong một con hẻm, đến một ngôi nhà nhỏ ông ta gọi nhỏ: “Thắm ơi mở cửa cho chú Năm”. Bên trong nhà có một thứ ánh sáng lù mù của đen dầu được ai đó thắp lên. Cánh cửa xịt mở, một cô gái xuất hiện trước chúng tôi. Năm Mun và tôi lách vào trong, cô gái đóng cửa lại. Năm Mun nói với cô ta: “ Thằng em này ngủ nhờ một đêm ở đây, sáng sớm sẽ đi xe đ̣ về Sài G̣n”. Cô gái chắc hẵn đă quen  với t́nh huống này nên không hỏi han ǵ, chỉ cho tôi cái ghế bố bảo nằm lên đó và đi giăng mùng cho tôi. Khi tôi dỡ nón ra, cô ta ngạc nhiên khi trông thấy cái đầu trọc lóc của tôi. Năm Mun cười giả thích” Nó làm ăn thua lỗ nên xuống tóc vái Trời Phật giúp nó khá hơn”.

Sáng sớm hôm sau, năm Mun dẫn tôi ra bến xe đ̣ đi chuyến tài nhứt về Sài G̣n. Ông nói nếu ḿnh đi trể, công an Cần Giờ có thể đánh điện qua đồn công an cầu Cỏ May chận xét bắt tôi lại.

Về đến Sài G̣n tôi dẫn năm Mun vào một quán cà phê ở góc đường Tôn Đản và Trịnh Minh Thế cũ và nhắn người nhà đến trả cho công cho ông ta một chỉ vàng. Tôi không cho ông ta biết nhà sợ sau này ông ta sẽ đến ṿi vỉnh tiền bạc, Vậy mà, khi tôi qua buôn bán bên quận 1 ông ta cũng t́m ra tôi để xin tiền.

Trong 3 năm từ 1983 đến 1986, tôi nhiều lần đi vượt biên nhưng đều thất bại. Trong số đó có hai chuyến mà tôi không bao giờ quên. Một lần tôi xuống taxi (ghe nhỏ) cũng tại nhà bà Bảy ở đường Tôn Thất Thuyết, quận 4 cách nhà tôi không xa, Chiếc taxi vừa rời khỏi nhà bà Bảy vài phút th́ tôi nghe có tiếng la to:” Dừng lại, ghe vượt biên, công an đây, nếu không chúng tôi bắn”. Tôi ló đầu ra khỏi khoang ghe nh́n ra ngoài trong bóng tối có những ánh đèn pin lóe lên, tôi trông thấy một chiếc ghe to hơn ghe tôi đang cặp sát ghe tôi, trên đó có những người mang súng M16. Tôi vội phóng ḿnh xuống sông, bơi nhanh về phía một chiếc ghe chài gần đó. Tôi leo lên ghe chài, nói thật với những người trong ghe để xin thay một bộ quần áo khô để về nhà, Sau khi nhận một số tiền  tôi đền ơn, họ đưa cho tôi một bộ quần áo khô và tôi ung dung lên bờ đón xích lô về nhà. Sau này tôi nghe những người trong tổ chức vượt biên nói hôm đó những người mang súng uy hiếp ghe vượt biên là bảo vệ (gác dan) của  kho gạo gần đó. Họ biết ghe chúng tôi chuyển người vượt biên ra ghe lớn nên họ giả công an để cướp vàng những người trên ghe chúng tôi.

Lần khác, tôi được người “dẫn gà” (dẫn khách vượt biên) đưa xuống  một xă thuộc quận Nhà Bè vào một nhà dân đang tổ chức ăn giỗ. Tôi được giới thiệu là bạn của chủ nhà ở “thành phố”  (Sài G̣n ) xuồng dự, Mọi người ngồi thành ṿng tṛn trên một chiếc chiếu, trong số đó hai tên công an mặc thường phục. Chúng thường liếc về phía tôi và nói nửa đùa, nửa thật như đe dọa ”Chà tối nay chắc có chuyện vui”. Anh “dẫn gà” thấy không êm nên khi tôi ra đi tiểu ở mé sông, anh ta theo tôi và bảo tôi xuống xuồng, anh ta đưa tôi ra ghe lớn. Khi tôi đă lên ghe lớn th́ có nhiều chiếc xuồng nhỏ cặp vào ghe lớn và từ xuồng người ta leo lên tàu. Khi mọi người lên đầy đủ, ghe bắt đầu chạy. Ghe chạy một đổi, bỗng dừng lại. Có tiếng người la lên: “ Gạo và nước uống chưa đưa lên, chúng ta chỉ có một bao cũ sắn, không thể đi được. Tàu sẽ vô sát bờ, bà con mạnh ai nấy chạy nếu chậm chân sẽ bị công an bắt”.

Tôi lại phóng xuống sông, bơi nhanh vào bờ. Lên tới bờ, tôi chạy một mạch xa chỗ tàu đậu v́ chắc chắn một lát nữa công an sẽ tới. Những tiếng chó sũa trong những xóm nhà quanh đây làm tôi lo ḿnh sẽ bị lộ. Khi biết ḿnh đẫ chạy khá xa chỗ tàu đậu, tôi lần ra mé sông t́m ghe để quá giang trở lại Nhà Bè.

Một chiếc xuồng nhỏ có thắp một ngọn đèn leo lét chèo ngang qua tôi. Tôi gọi họ vào và ngỏ ư xin họ quá giang về Nhà Bè đổi lấy số thuốc tây tôi mang theo. Họ đồng ư chở tôi về Nhà Bè. Tôi lên bờ và nhận thấy vẫn c̣n giờ giới nghiêm nên tôi t́m một chiếc xuồng bỏ không nằm ẩn ḿnh chờ sáng. Khi trời vứa tờ mờ sáng, tôi đón chiếc xe lam đầu tiên về nhà. Trên xe, những người khách đồng hành lén nh́n đôi chân trần của tôi nhưng không ai nói ǵ.

Thấy tôi đi nhiều lần mà không lọt, cô bảy tôi giao cho Hùng, thằng rể út của cô cố gắng xem chuyến đi nào chắc ăn dẫn cho tôi đi. Cuối tháng 9 năm 1986, tôi buồn v́ chuyện ở không xong, đi không lọt nên đi bộ lang thang một ḿnh qua quận 1. T́nh cờ khi đi ngang tổ hợp mộc ở đường Nguyễn Trăi th́ gặp anh sáu Lạc, anh con người bác làm việc ở đây. Anh sáu Lạc kéo tôi vào nhậu với anh và vài người bạn làm chung với anh, Họ uống rượu đế, tôi không quen uống thứ rượu này, nhưng v́ buồn nên tôi cũng nốc cạn ly theo họ. Chẳng mấy chốc tôi đă say mèm không c̣n biết trời trăng ǵ cả. Anh sáu Lạc kêu một chiếc xích lô và cho anh ta địa chỉ của tôi để anh xích lô chở tôi về nhà.

Tới nhà, trời đă khuya, tôi leo lên giường đắm ḿnh trong giấc ngủ nặng nề, Tôi gjựt ḿnh tỉnh giấc nhưng đầu óc nặng như bị búa bỗ khi bị vợ tôi lay dậy. Nàng nói:”Chú Hùng đến đón anh, hôm nay có chuyến đi”. Thế là chỉ kịp nói lời từ giă với vợ và nh́n thoáng hai đứa con đang ngủ, tôi lật đật đi theo Hùng.

Hùng đưa tôi vào Chợ Lớn, đứng chờ ngoài cửa rạp hát Minh Phụng. Độ  gần một giờ sau có người đến dẫn tôi ra bến xe lam chạy đường Phú Xuân. Dọc đường xe bị trục trặc, anh tài xế phải ngừng lại sửa một lát  mơi đi tiếp.Tới Phú Xuân, anh dẫn đường đưa tôi vào một quán nước sát mé sông và hai người ăn uống để chờ taxi đến đón.

Một lát sau,một chiếc ghe nhỏ có mui đến đậu phía sau quán nước. Anh dẫn đường đưa rôi xuống ghe. Ghe chạy thật lâu rồi ngừng ở một ngả  ba sông mà tôi đoán là cửa sông Nhà Bè.

Tôi vẫn c̣n nhức đầu v́ cuộc nhậu hôm qua. Tôi nói với anh lái ghe  tôi muốn đi cầu. Anh ta bảo tôi ngồi xoay mông về phía sông chứ đừng xoay về phía bờ lỡ bọn công an trông thấy mông tôi trắng biết tôi là người Sài G̣n th́ nguy to.

Đến gần tối anh lái ghe hỏi tôi có vợ con chưa. Tôi đáp có, anh ta hỏi tại sao không đi với vợ con. Tôi nói không đủ tiền để đi cả gia đ́nh. Anh ta nói nếu tôi nói sớm anh ta có đủ thời gian về đón vợ con tôi ra đây đi chung, tôi chỉ cần cho anh ta một ít tiền. Tôi thầm nghĩ, vợ tôi bị bắt một lần e rằng không dám đi nữa.

Khi màn đêm phủ đầy trên vạn vật th́ tôi nghe có tiếng máy tàu lớn dần. Anh lái ghe nói với tôi: “ Tiếng máy Yamaha đầu bạc, con cá lớn ra tới đó”. Nói xong anh giựt cho máy đuôi tôm nổ và cho ghe tiến ra giữa sông. Con cá lớn dừng lại. Anh lái ghe cột ghe nhỏ của anh vào ghe lớn rồi đưa tôi lên ghe lớn và nói cho biết tôi là người của hai Minh. Anh ta cũng leo lên ghe lớn và cầm lái. Sau này tôi được biết anh ta có nhiệm vụ đưa tàu ra cửa biển. Đến cửa Vàm Láng, anh ta nhảy xuống ghe nhỏ  quay về.

Tàu đang chạy bổng khựng lại, máy vẫn nổ nhưng tàu không tiến tới được. Có tiếng người la lên: “Tàu kẹt cồn rồi”. Đáy sông có chỗ sâu, chỗ cạn, tàu tôi vướng vào chỗ cạn. Tôi chợt liên tưởng đến cảnh bị bắt trong lần vượt biên đầu tiên. Chủ tàu hô hào: “ Bà con nào biết lội nhảy xuống đẩy tàu qua cồn phụ với chúng tôi”. Tôi cũng nhảy xuống với mọi người.

May mắn, tàu vượt qua khỏi cồn đi vào một lạch sâu và máy đẩy được tàu tiến tới. Ai nấy đều vui mừng. Tôi leo lên tàu và khám phá tượng Quan Âm Nam Hải vợ tôi đă thĩnh ở chùa cho tôi đeo ở cổ đă rớt mất. Sau này vợ tôi nói Phật Bà đă phù trợ cho tôi vượt qua nguy hiểm nên đến lúc Phật Bà phải ra đi.

Tàu đă ra biển, ngọn hải đăng ở Vũng Tàu lùi xa dần. Bỗng có tiếng la lên:” Tàu đánh cá của công an đang đuổi theo tàu chúng ta”. Tôi nh́n ra phía sau, một chấm đen lớn dần đang di chuyển về hướng tàu tôi. Tôi lại lo lắng về viễn tưởng bị bắt lần thứ hai về tội vượt biên.

Tàu của chúng tôi gia tốc, nhưng tàu của công an máy mạnh hơn nên từ một chấm đen tàu công an hiện ra đầy đủ h́nh ảnh một chiếc tàu. Chúng tôi vẫn chưa ra đến hải phận quốc tế nên tàu công an có quyền bắt giữ tàu chúng tôi. Bỗng có tiếng reo lên:”Tàu công an quay về rồi. Chắc nó không đủ xăng dầu để đi xa hơn”. Tôi nh́n thấy chấm đen quay về hướng khác rồi nhỏ dần và cuối cùng mất hút ở cuối chân trời. Mọi người thở phào như trút được nỗi lo sợ từ khi thấy tàu công an xuất hiện.

Rồi tàu cũng đến hải phận quốc tế. Nước biển ở đây có màu xanh đậm. Chúng tôi thấy một chiếc tàu buôn to lớn đi ngang. Mọi người cố gắng vẫy tay và la to:” SOS”để cầu cứu. Chủ tàu cho đốt quần áo để tàu buôn trông thấy chúng tôi. Vô ích, tàu buôn vẫn bỏ đi, nhỏ dần rồi biến mất. Gần đây, sau hơn 10 năm cứu vớt và cho định cư các thuyền nhân Việt Nam, ḷng nhân đạo của các nước tây phương đă trở nên chai đá. Chính quyền các nước đó cấm tàu thuyền của họ vớt tàu Việt Nam vượt biển. Thuyền trưởng nào không tuân lệnh sẽ phải ra ṭa. Thành ra, chúng tôi không hy vọng được tàu ngoại quốc cứu vớt. Bao nhiêu tàu buôn sau đó cũng lạnh lùng bỏ mặc con tàu nhỏ bé của chúng tôi lênh đênh trên biển cả.

Đi được vài ngày th́ vào một buổi chiều, mây đen kéo đầy trời. Mưa bắt đầu rơi nặng hột và giông tố nỗi lên. Tàu chúng tôi như một chiếc lá giữa ḍng, nhấp nhô theo những đợt sóng. Càng về đêm gió càng mạnh. Từ dưới khoang tôi ngước nh́n lên boong tàu thấy chủ tàu và các thủy thủ mặt mày buồn xo. Tôi biết t́nh trạng của chúng tôi rất nghiêm trọng. Tàu của chúng tôi có thể bị sóng gió đánh ch́m bất cứ lúc nào.

Th́nh ĺnh có tiếng la to:” Có người rớt xuống biển. Cho quay tàu lại vớt người ta”. Chủ tàu lên tiếng:”Đành chịu thôi, sóng gió như thế này, quay ngang tàu th́ sóng sẽ đánh tàu lật úp”. Tàu vẫn tiến tới nhưng gió bỗng giảm cường độ và biển lần lần êm lại. Mưa cũng bắt đầu thưa dần rồi tạnh hẵn. Băo tố đă đi qua. Tôi nghe có nhiều người lâm râm niệm phật hay đọc kinh.

Mọi người trên tàu bàn tán về sự việc vừa xảy ra, Có người nói, người vừa nhảy xuống biển đă nộp mạng cho thủy thần để cứu mạng cho tất cả người c̣n lại trên tàu. Không biết có nên tin điều này hay không, nhưng có một điều tôi thấy tội nghiệp cho đứa bé khoảng 12, 13 tuổi, cháu của người nhảy xuống biển bây giờ phải chịu bơ vơ. Hai chú cháu đi chung với nhau và họ là người Hoa nói tiếng Việt không rành.

Khoảng ngày thứ năm của cuộc hành tŕnh, tàu chúng tôi gặp tàu đánh cá Thái Lan. Đă từng nghe người ta kể nhiều chuyến vượt biển bị tàu đánh cá Thái Lan cướp bóc tài sản và hăm hiếp phụ nữ. V́ vậy chúng tôi rất lo lắng không biết tính như thế nào. Những người trên tàu Thái Lan đen đúa, bậm trợn. Bất đắc dĩ, tài công và một thủy thủ đem la bàn và bản đồ leo qua tàu Thái Lan. Tôi nh́n thấy có một chiếc tàu chở dầu mang cờ Mỹ ở gần đây. Có lẽ nhờ vậy mà tàu đánh cá Thái Lan thay v́ cướp bóc họ lại chỉ đường, cho lương thực và dầu.

Hai người của chúng tôi trở lại tàu và tàu chúng tôi đi theo hướng bọn đánh cá Thái Lan chỉ. Tuy nhiên, khi trời tối hẵn th́ tài công rẽ tàu sang hướng khác để tránh bọn đánh cá Thái Lan đuổi theo. Do đó tàu đi lạc hướng măi đến ba bốn ngày sau th́ gặp một tàu đánh cá Mă Lai. Tôi chưa nghe ai kể lại một chuyến vượt biển nào bị tàu đánh cá Mă Lai cướp bóc nên yên tâm. Khi hai tàu cặp sát nhau, một thủy thủ Mă Lai nhảy sang tàu chúng tôi. Tôi nói với anh ta là tàu chúng tôi sắp hết dầu và nhờ tàu anh ta kéo tàu chúng tôi vào bờ, Anh ta đồng ư và đ̣i chúng tôi trả công cho bọn anh ta bằng cách cho hết số vàng c̣n mang trong người cho họ. Những người trên tàu sốt sắng lấy hết số vàng c̣n dấu trong người bỏ vào nón của anh ta, Anh ta nhảy trở qua tàu Mă Lai và quăng dây thừng qua tàu tôi bảo cột vào mũi ghe để tàu Mă Lai kéo đi.

Tàu Mă Lai kéo tàu chúng tôi đi được một vài giờ bỗng có tiếng người la lớn: “tụi Mă Lai chặt dây kéo rồi”. Mọi người thất vọng nh́n theo chiếc tàu Mă Lai bỏ chạy. Nhưng ai đó reo lên:” A có tàu hay cái ǵ đằng kia ḱa”. Tài công cho nổ máy tàu và chạy về phía vật ǵ đen đen nằm ở chân trời. Chúng tôi chạy nhiều tiếng đồng hồ nữa mới tới . Th́ ra đó là giàn khoan dầu của Mỹ.

Tàu tới giàn khoan th́ trời đă sụp tối. Một người trong tàu tôi nhảy lên giàn khoan cột tàu vào giàn khoan, Đàn bà và trẻ em được cẩn thận đưa lên giàn khoan. Đàn ông th́ nhảy qua. V́ bị nhốt dưới khoang tàu gần 10 ngày, tay chân tôi tê cứng và người rất đuối sức, khi nhảy qua giàn khoan tôi hụt chân suưt rơi xuống biển, may nhờ anh tài công nắm được tay tôi kéo qua. Anh ta la lên:” Bộ muốn chết sao cha nội”. 

Chúng tôi đổ bộ lên giàn khoan khá lâu mà không thấy người nào của giàn khoan xuống gặp chúng tôi. Một lát sau từ phía trên nước tuôn xuống chúng tôi như mưa. Tôi đă được em gái tôi kể lại trong chuyến đi của nó, người ta cũng lâm vào cảnh như chúng tôi hiện giờ. Người của giàn khoan muốn đuổi chúng tôi đi, nhưng như em tôi dặn chúng tôi phải sử dụng chiến thuật “ĺ”. Tôi nói với mọi người cứ ở ĺ trên giàn khoan. Thấy đổ nước không đuổi được chúng tôi, một anh Mỹ cao lớn từ trên bước xuống, Tôi được mọi người cử ra nói chuyện với anh Mỹ, Anh ta nói với tôi: họ sẽ cho tàu tôi dầu, thức ăn, nước uống và chỉ đường cho chúng tôi vào bờ, Tôi từ chối nói rằng tàu chúng tôi bị hỏng máy không thể đi được nữa. Anh ta nói: “Như vậy chúng tôi đành phải gọi cảnh sát Mă Lai đến bắt các anh”. Nói xong anh ta đi lên trên. Tôi bảo chủ tàu cho người xuống đục thủng tàu, như vậy theo luật họ không thể bỏ rơi chúng tôi. Một anh trong số chúng tôi nhảy xuống tàu để đục thủng đáy để tàu ch́m. Nhưng tàu không ch́m lại bị đứt dây lần lần ra xa giàn khoan. Chủ tàu nhờ tôi chạy lên cầu cứu  với nhân viên giàn khoan v́ anh ở dưới tàu không biết bơi.

Lúc đó có một chiếc trực thăng bay ṿng ṿng phía trên giàn khoan. Tôi vừa lên hết cầu thang th́ gặp một anh Mỹ. Tôi nói với anh ta nhờ dùng trực thăng cứu người của tôi, Anh ta trao cho tôi một cái phao cao su vừa đuổi tôi xuống vừa bảo tôi kiếm người bơi giỏi nhảy xuống biển bơi ra cứu người trên tàu.  Một lát sau hai người về tới dàn khoan. Chiếc tàu dần dần ch́m xuống.

Một anh Mỹ xuống bảo tôi cho xếp hàng đàn ông một bên và đàn bà, con nít một bên. Anh trở lên, một lát sau đem một thùng bánh xuống phân phát cho mọi người. Tôi biết chắc rằng giàn khoan đă chấp nhận cứu vớt chúng tôi.

Họ bắt đầu che màn làm buồng tắm cho chúng tôi tắm rửa, đoạn mang thức ăn đến cho chúng tôi. Chỉ trong khoảng có vài giờ mà họ cho chúng tôi ăn hai ba lần như vậy.

Cuối cùng họ tập hợp chúng tôi lại và cho biết họ sẽ cho tàu dầu của công ty họ tới chở chúng tôi vào bờ. Một anh Mỹ to con nói với tôi hỏi mọi người c̣n tiền Việt Nam không cho anh ta v́ anh ta có vợ Việt Nam và sắp sữa đi chơi ở Việt Nam. Bù lại, ai cần viết thư về nhà để báo tin th́ viết địa chỉ đưa cho anh ta.

Khi tàu dầu tới, mọi người xuống tàu. Người Mư cho mang xuống tàu thức ăn, sữa, nước uống và dặn tôi cứ hai giờ là phân phát cho mọi người.

Độ mười giờ sau, chúng tôi trông thấy bờ. Mọi người reo lên mừng rỡ, Chúng tôi mất mười ngày gian khổ để đến được bờ tự do.

Chúng tôi lần lượt bước lên bờ dưới cái nh́n ṭ ṃ của những người trên đảo đang tập trung chờ đón chúng tôi, Mọi người ngồi chồm hỗm trước văn pḥng của SB (Special Branch) để chờ điều tra cá nhân. Tôi thấy có hai cái bàn làm việc của một người đàn ông và một người đàn bà, Mọi người lần lượt đến ngồi trước mặt hai nhân viên đó, Lúc đó tôi tưởng họ là nhân viên của Mỹ và từ Mỹ sang đây làm việc. Sau này tôi được biết họ cũng là thuyền nhân như chúng tôi .Anh nhân viên kia là một cựu đại úy, con của tướng Phan Xuân Nhuận, từng là chỉ huy trưởng Biệt Động Quân. Tôi được cô nữ nhân viên lấy lời khai. Cô này mặc một chiếc áo đầm và trang điểm cẩn thận. Tôi khai  tất cả lư lịch của tôi cho cô ghi nhưng dấu nhẹm việc tôi có đi dạy học cho chế độ mới v́ tôi nghe nói ai khai có làm việc cho chế độ mới sẽ gặp khó khăn trong việc định cư,

Tôi được nhân viên của trại (thuyền nhân làm thiện nguyện cho trại) dẫn đi ở khu F. Dọc đường có người nhận ra tôi gọi ông Chim Sẻ. Lại có Thu, con chú Phước Lợi, tiệm may gần nhà tôi chạy theo kêu anh hai. Thu nói sẽ xin cho tôi về ở nhà  vợ chồng Thu nhưng người dẫn tôi đi nói không được. Người ta đưa tôi vào ở chung nhà với Tư Lên, trưởng khu F. Sau này tôi biết tư Lên là một tay anh chị ở Việt Nam trước khi vượt biên.

Mọi người trong trại đều phải tham gia công tác tùy theo khả năng của ḿnh cho việc điều hành trại. Ai không có khả năng đặc biệt ǵ th́ làm lao động tổng quát như dọn dẹp vệ sinh. Ai có tŕnh độ ngoại ngữ như Anh Văn, Pháp Văn th́ dạy các trường Anh Văn khu D hay Pháp Văn khu F. Các em ở tuổi trung học th́ có trường high school do soeur Carol, người Úc làm cố vấn. Trường Anh Văn do một cố vấn người Mă gốc Tàu làm cố vấn, c̣n trường Pháp Văn do bà Odile làm cố vấn. Hiệu trưởng các trường là các thuyền nhân. Tôi c̣n nhớ hiệu trưởng high school là Tân, một thanh niên trẻ nói tiếng Anh khá lưu loát. Hiệu trưởng trường Anh Văn là Khoa, lớn tuổi hơn Tân, tŕnh độ Anh Văn cũng khá và được mọi người để ư v́ anh ta thường ăn mặc quần short, áo polo trắng và đánh tennis với các cố vấn Mă Tàu và Cao Ủy. Hiệu trưởng trường Pháp Văn là cô Loan. V́ tôi được mọi người biết là thầy giáo khi ở Việt Nam nên được mời dạy cả ba trường đó. Soeur Carol đem sách toán từ Úc sang nhờ tôi dạy các em để các em quen với từ ngữ toán học bằng tiếng Anh. Sau này khi cô Loan chuyển trại qua Sungei Besi th́ tôi được bà Odile mời làm hiệu trưởng trường Pháp Văn khu F.

TruongHoc.jpg

Trường học trên đảo

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

Những thuyền nhân là cựu sĩ quan hay nhân viên hành chánh của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa th́ được cho làm trong ban điều hành trại gồm trại trưởng, các trưởng khối, các trưởng ban và các trưởng khu A, B, C,D, E, F, G. Tôi c̣n nhớ lúc tôi ở trại th́ trưởng trại làt thiếu tá Huwhải quân.

Mă Lai là một nước theo đạo Hồi nên cấm ăn thịt heo và uống rượu. Các thuyền nhân Việt Nam đang ở trong lănh thổ Mă Lai nên bị ràng buộc bở luật đó. Ai bị bắt gặp lén uống rượu th́ bị cảnh sát Mă Lai bắt nhốt vào Monkey House (chuồng khỉ). Chồng của Thu, con gái chú Phước Lợi có lần uống rượu bị nhốt trong đó.

Ở trên đảo có một thú vui là đi đón tàu vượt biên đến đảo. Mọi người mong trong số người mới đến có người thân hay người quen. Thường thường là cảnh vui mừng khi người trên đảo gặp lại người quen trong số thuyền nhân mới tới. Đôi khi, chiếc tàu mới đến đă bị hải tặc Thái Lan cướp bóc và hăm hiếp th́ người ta chua xót khi trông thấy những người mới đến bước lên bờ trong dáng thiễu nảo, xơ xác và thương cảm nhứt à các phu nữ sau khi trải qua sự vùi dập của bọn thú vật Thái Lan, họ bước khỏi tàu, cúi gầm mặt không nh́n ai. Những phụ nữ đó sẽ được đưa vào bệnh viện Sick Bay trên đảo để khám phụ khoa. Ai không may bị mang thai sẽ được phá để tránh những hệ lụy sau này. Cao Ủy sẽ đưa những người bị cướp bóc hay hăm hiếp qua Thái Lan để chỉ mặt bọn cướp và truy tố chúng ra pháp luật. Nhưng thủ tục này không kết quả bao nhiêu v́ những nạn nhân không nh́n ra hung thủ v́ thằng nào cũng đen đúa giống nhau. Vả chăng, chính quyền Thái Lan cũng cố ư bênh vực cho công dân của họ.

Một hôm tôi đang ngồi trong văn pḥng trường Pháp văn khu F, th́ có anh Trà Văn Gởi, dạy Vạn Vật chung trường trung học Vĩnh B́nh trước năm 75 bước vào. Anh nói mới tới đảo vài ngày, hôm nay anh nghe thông báo trên loa của trường Pháp Văn trong đó có đọc tên hiệu trưởng là tôi nên anh đến t́m tôi. Tay bắt mặt mừng, sau mười mấy năm không gặp chúng tôi không ngờ lại gặp nhau trong trại tỵ nạn. Anh cho biết hiện anh làm trong ban thông dịch cho Cao Ủy. Anh Gởi có khiếu về Anh Văn nên tuy tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Vạn Vật nhưng thỉnh thoảng được nhờ dạy Anh Văn cho một số lớp đệ nhứt cấp khi thiếu giáo sư Anh Văn. Sau này khi sang trại chuyển tiếp Sungei Besi, anh vẫn làm thông dịch và anh định cư ở North Carolina, Hoa Kỳ. Tôi cũng gặp lại được anh Nguyễn Phú Hùng, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, trước đây là trưởng ty kimh tế ở Trà Vinh sau làm phó quận Cầu Ngang, Trà Vinh. Anh làm cho bưu điện ở đảo, ông tiên đem niềm vui cho thuyền nhân ở đây qua các lá thư của gia đ́nh và nhứt là các tấm check gởi từ thân nhân ở hải ngoại.

 

 

 

Pascale1.jpg

Trường Pháp Văn khu F ở Pulau Bidong

(Nguồn:facebook Pulau Bidong Alumni_Tỵ Nạn Pulau Bidong)

 

Các giáo sư dạy học ở trường Pháp Văn khu F được cố vấn Odile “trả lương” mỗi tuần bằng một tô bánh canh của vợ chồng anh Tư bán ở chợ của đảo. Gia đ́nh anh Tư đông con lại không có diện ǵ nên xin học tiếng Pháp để xin định cư bên Pháp. Đó là ngày vui nhứt của chúng tôi v́ được ăn ngon không như những bữa cơm thường nhựt nhàm chán với những thực phẩm do trại cung cấp. Ban đầu tôi ở chung với gia đ́nh Tư Lên, sau khi làm hiệu trưởng trường Pháp Văn, tôi về ở chung với một cặp vợ chồng không con và hai cô gái độc thân trong một căn nhà có gác đối diện với trường. Ba người phụ nữ đó thay phiên nấu nướng cho cả nhà ăn. Hai thằng đệ tử của tôi là Ba Tô và Kiệt ở chỗ khác.

Tôi có một đứa em gái tên Phụng, vượt biên đến đảo trước tôi 3 năm, nó đă định cư ở Canada năm 1985. Một hôm tôi thấy tên em tôi trong số giấy tờ về hồ sơ thuyền nhân ở trước đây trên đảo. V́ không có diện ǵ cả nên em tôi phải ở đảo hai năm mới được định cư. Sau khi tôi bắt liên lạc được với em gái tôi th́ cứ khoảng vài tháng th́ nó gởi qua cho tôi 100 đô la nên cuộc sống trên đảo của tôi cũng không đến nỗi cực khổ lắm. Thỉnh thoảng, tôi dến quán cà phê Fly Inn nhâm nhi một ly cà phê đá và nghe nhạcvàng  trước 75 mà 11 năm qua ở Việt Nam bị cấm đoán.

Nghe nói chủ quán cà phê này ngày trước ở Việt Nam là một tay buôn lậu ma túy mà CIA đă ghi vào hồ sơ đen. Gia đ́nh ông ta đến đảo từ năm1979 nhưng không nước nào nhận v́ quá khứ đen tối của ông ta, Nghe đồn ông ta có nhiều trương mục trong các ngân hàng Thụy Sĩ và Hoa Kỳ hứa nhận gia đ́nh ông ta định cư ở Mỹ nếu ông ta trao cho Hoa Kỳ số của các trương mục đó nhưng ông ta từ chối. Có lẽ ông ta mang theo nhiều vàng và đă lo lót cho chính quyền Mă Lai địa phương nên mở được quán cà phê lớn nhứt trên đảo tỵ nạn này, Con trai lớn của ông ta tên Dũng là một tay sở khanh, háo sắc với vẻ hào hoa và giàu có đă không buông tha cho những cô gái đẹp nào lên đảo một ḿnh. Bởi măi mê hái hoa nên cậu ta ở đảo 7 năm rồi mà chẳng nói được một câu tiếng Anh nào. Trái lai, em trai của Dũng chịu khó học hành nên cậu này khá tiếng Anh. Sau này, tôi nghe nói gia đ́nh của ông chủ quán Fly Inn định cư ở Pháp.

Caphre.jpg

Quán cà phê Fly Inn

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

 

Trên đảo, t́nh cờ tôi lại gặp một người em gái bà con bên nội. Cô ta trước 75, là một cô gái làm trong các bar rượu phục vụ cho lính Mỹ. Sau 75, cô ta hoàn lương lấy một người chồng lớn tuổi hơn cô nhiều và có với người đó một đứa con gái kháu khỉnh độ 5 hay 6 tuổi, Cháu gặp tôi kêu cậu hai nghe thật dễ thương. Ba cháu trước là thủy thủ trên tàu buôn của Pháp. Hai vợ chồng nhờ tôi nói với cố vấn Odile cho gia đ́nh học tiếng Pháp để xin định cư ở Pháp. Trong khi những thuyền nhân khác th́ mơ được định cư ở Mỹ, Úc, Canada..th́ gia đ́nh này chỉ có ước muốn khiêm nhường là đi Pháp. Cô em họ nhờ tôi dạy kèm thêm tiếng Pháp cho vợ chồng cô. Hai vợ chồng cô có một xe bán bánh ḿ trên đảo, cô thường biếu tôi một ổ bánh ḿ thịt cho tôi ăn sáng. Khi gia định cô chuyển trại sang trại chuyển tiếp Sungei Besi để chờ định cư ở Pháp, cô sang xe bánh ḿ lại cho Thu, con gái chú Phước Lợi. Đến lượt Thu cung cấp miễn phí một ổ bánh ḿ mỗi sáng cho tôi. Vợ chồng Thu cũng có một đứa con gái nhỏ, ba người định cư ở Phần Lan. Qua đó, Thu gởi về cho tôi một tấm h́nh cả gia đ́nh chụp mang ba cặp kính đen mà tôi gọi đùa là h́nh ba con tḥi ḷi. Tôi c̣n gặp vợ chồng con của một bác cũng là chủ tiệm may như ba tôi, nhà ở trong chợ Cầu Cống, hai người này có diện đi Úc, Cặp vợ chồng này chưa có con và thường gây gổ với nhau, mỗi lần như vậy là một trong hay đứa t́m tôi để phân xữ. Hai đứa mở một tiệm may trên đảo. Khi tôi chuyển trại, hai đứa may cho tôi một bộ quần áo mới để đi định cư. Tôi cảm động trước những thâm t́nh bà con và lối xóm trên bước đường vượt thoát t́m tự do của ḿnh.

Tôi c̣n những thân t́nh mới ở đảo ngoài hai thằng đệ tử đi chung tàu là Ba Tô và Kiệt như Khoa, hiệu trưởng trường Anh Văn khu D, Tân, hiệu trưởng High School, ba chúng to. Dịp Noel 1986 vầ Tết 1987, ba chúng tôi cùng thầy Tính, dạy ở High School tổ chức party vui chơi với các thầy, cô giáo dạy ở các trường thật vui. Về sau, Khoa định cư ở Montreal, Canada như tôi, Tân đi Úc và T́nh đi Mỹ.

Trên đảo có hai chơ: chợ Mă do thân nhân các cảnh sát và giám thị Mă làm chủ các cửa tiệm, chợ Việt do các thuyền nhân có chút ít tiền gởi mua hàng ở đất liền đem về bán sơ sài trên các sạp.

ChoViet.jpg

  Chợ Việt trên đảo

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

 

Trên đảo c̣n có một ḷ làm bánh ḿ do một gia đ́nh thuyền nhân làm chủ. Các đứa con của họ đều đi học ở trường High School.

Khi một tàu vượt biên đến đảo, sau khi các thuyền nhân trên tàu đó làm thủ tục điều tra tại SB (Special Branch), sau này đổi thành RB (Record Branch) th́ khoảng hơn một tháng sau được phái đoàn Mỹ đến phỏng vấn. Các cựu quân nhân, viên chức của VNCH, nhân viên sở Mỹ được nhận cho định cư ở Mỹ chỉ trừ khi họ có thân nhân ở nước khác v́ theo quy tắc của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tỵ Nạn (HCR) họ phải đoàn tụ với thân nhân của họ. Đó là trường hợp của cá nhân tôi, mặc dù tôi có mang theo bên người chứng chỉ tại ngũ nhưng v́ tôi có em gái đă định cư ở Canada nên phái đoàn Mư chuyển hồ sơ định cư của tôi cho phái đoàn Canada. Tôi cho đó là định mệnh đă sắp đặt nên cũng không lấy làm buồn. Người ta bảo tôi có thể xin phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn nếu nhắn em gái của tôi làm đơn "xù" tôi lấy cớ không khả năng bảo trợ tôi nhưng tôi không làm theo. C̣n một diện đặc biệt được Mỹ nhận nữa là diện cô nhi tức là các thuyền nhân dưới 18 tuổi. Do đó có nhiều thanh niên quá tuổi cô nhi nhưng vẫn khai ḿnh dưới 18 tuổi để được đi Mỹ. Thứ tự ưu tiên để các thuyền nhân chọn đi định cư là: Mỹ, Úc, Canada, Pháp và các nước Bắc Âu.

Theo thông lệ, khi một người được chuyển sang trại Sungei Besi, trên đất liền để làm thủ tục định cư th́ người đó phải tổ chức một party từ giă bạn bè. Nói là party cho long trọng chứ thật sự chỉ là một bữa tiệc trà bánh ngọt. Mỗi lần có người chuyển trại th́ ban thông tin trại cho phát loa bản nhạc Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn:

"Ngày mai anh đi,

Biển nhớ tên em gọi về

Gọi hồn liễu rũ lê thê

Gọi bờ cát trắng lê thê"

Những lời ca này làm bịn rịn bước chân người đi và rơi nước mắt kẻ ở lại, nhứt là khi kẻ ra đi và người ở lại là những người đang yêu nhau. Nếu họ can đảm dời ngày đi, ở lại để cùng đi định cư một lúc th́ phải làm một thủ tục mà người trên đảo gọi là "ghép blue card", nghĩa là tuyên bố với Cao Ủy họ kết hôn với nhau.

Lâu hay mau ǵ th́ ngày rời đảo cũng sẽ đến với mọi thuyền nhân. Lần lượt vợ chồng cô em họ tôi, rồi thằng Kiệt đi Pháp và gia đinh con.Thu đi Phần Lan. Đến lượt tôi được chuyển trại sang Sungei Besi để làm thủ tục định cư ở Canada. Ba Tô không có diện ǵ cả nên phải học một khóa huấn nghệ mới được định cư.

Hôm tôi đi, các thầy cô giáo và một số học tṛ các trưởng ra tận cầu Jetty  tiễn tôi. Thằng Ba Tô là một người rất t́nh cảm, nó ôm tôi khóc ̣a khi tôi chuẩn bị bước lên tàu khiến tôi nhớ lại câu cuối của một bài trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư: "Cành biệt ly sao mà buồn vậy".

Tàu đưa chúng tôi qua trại chuyển tiếp Marang. Ở đây, có những thuyên nhân trên các tàu mới đến những đảo của Mă Lai khác đảo Pulau Bidong được đưa đến trại này. Ngoài ra, những người ở Sungei Besị rớt phỏng vấn cũng được đưa đến đây để chở về Bidong.

Trong trại này, tôi nằm bên cạnh một người xứng danh là một huyền thoại thuyền nhân. Anh này vừa bị "xù" ở Sungei Besi để chờ về Bidong. Anh ta là dân đánh cá ở Trà Vinh, vượt biên sang Bidong, V́ không có diện ǵ nên anh kẹt ở đảo lâu.. Nhớ người yêu c̣n ở lại Việt Nam nên anh ta lên rừng đóng tàu, lặn ra biển gỡ máy ở chiếc tàu vượt biên bị đục thủng bỏ gần bờ rồi lái về Việt Nam. Đến Việt Nam, amh lên Sài G̣n t́m người yêu th́ bị một người quen bắt gặp đi báo công an. Anh ta bị bắt đưa ra Côn Đảo. Ở đây, anh ta đóng bè trở qua Bidong. Có lẽ anh làm các phái đoàn e ngại người giỏi như điệp viên James Bond nên không nước nào nhận anh. Anh này xứng đáng là một người vượt biển táo bạo khác ngoài anh hùng Lư Tống, người đă được tạp chí Reader's Digest kể lại cuộc vượt biên bằng đường bộ không tiền khoáng hậu qua các nước Cao Miên, Thái Lan, Mă Lai để sang Singapore,

Từ Marang, một xe bus đưa.chúng tôi đến trại Sungei Besi ở ngoại ô Kuala Lumpur..Tôi nh́n thấy tấm bảng ghi trên cổng vào trại: "Holding Center Sungei Besi" mà biết rơ thân phận ḿnh là người bị giam giữ v́ nhập cảnh trái phép vào Mă Lai.

Vài ngày sau khi tới trại tôi lại được cử làm hiệu trưởng trường Pháp Văn khu B thay thế một chi vừa được chuyển qua trại Baatan, ở Phi Luật Tân học Anh Văn trước khi được định cư ở Mỹ. Khu B này là một khu dành riêng cho những thuyền nhân người Miên. Sở dĩ Cao Ủy tách hai cộng đồng người Miên và người Việt Nam ra v́ họ muốn tránh chuyện xung đột chủng tộc. Thuyền nhân người Miên rất thích đi định cư ở Pháp nên đa số xin học trường Pháp, Ở trường Pháp Văn, ngoài tôi là hiệu trưởng c̣n một người Việt khác làm giáo sư là anh Hưng và hai giáo sư người Miên một nam, một nữ. Học sinh người Miên rất lễ phép với tôi, họ gọi tôi là "lục krụ" (ông thầy)  Nhờ một ít vốn liếng tiếng Miên khi ở Nam Vang năm 1985 nên tôi có thể cắt nghĩa bài cho họ hiểu. Trong khu B, nếu có party ǵ họ đều mời tôi tới dự. Trong số các thuyền nhân Miên ở đât có vài người gốc Trà Vinh và là cháu của Thạch Thanh Phú, học tṛ của tôi ở trường công lập Vĩnh B́nh

Lần lượt các bạn tôi như Trà Văn Gởi và Nguyễn Phú Hùng đều chuyển trại sang Sungei Besi. Gởi tiếp tục làm thông dịch cho các phái đoàn và Hùng làm Bưu Điện. Cả hai đều có diện đi Mỹ. Lúc đó ông trưởng ban đại dện trại (các thuyền nhân trong trại thường gọi là "trưởng trại") vừa đi định cư, chúng tôi đề cử thiếu tá Vơ lên thay. Thiếu tá Vơ tốt nghiệp khóa 19 Vơ Bị cùng với Nguyễn Văn Đối, bạn tôi. Anh Vơ làm trưởng trại không lâu th́ xin từ chức v́ buồn việc gia đ́nh: vợ anh đi vượt biên trước anh, định cư ở Canada và đă bỏ anh. Tuy nhiên vợ anh vẫn làm bảo lănh cho anh đi Canada. Nguyễn Phú Hùng lên thay thế. Phó trại là một anh thiếu úy không quân mà tôi đă gặp ở Marang. Anh và vợ con cùng một số người cùng tàu vừa cặp bến Mă Lai, vậy mà Mỹ đă nhận và chuyển gia đ́nh anh sang đây mau chóng. Trưởng ban an ninh là một đại úy cảnh sát và trưởng ban thông tin là Lâm Thị Ni, học tṛ cũ của tôi ở trường bán công Trần Trung Tiên, Trà Vinh ngày xưa.

Cố vấn trường Pháp Văn khu B là ông Jacques. Ông ta đi làm thiện nguyện ở trại tỵ nạn để t́m tài liệu soạn luận án tiến sĩ về đề tài "người tỵ nạn trên thế giới". Ông ta là con của một người Pháp ở Sài G̣n, chủ nhà hàng La Cigale ở Đa Kao.. Ông ta học ở lycée Jean Jacques Rousseau đén năm 1975, lúc đó ông ta vừa đúng 18 tuổi. Sau khi Sài G̣n thất thủ, ông ta về Pháp học đại học. Ông ta nói tiếng Việt rất giỏi v́ bạn bè ông là người Việt. Ông ta c̣n biết nói đùa khi hỏi tôi có biết hiệu trà "Thái Đức" không? Tuy nhiên ông theo đúng nguyên tắc là không dùng tiếng Việt với tôi và anh Hưng cũng như với các học sinh người Việt.

Mă Lai là một quốc gia theo đạo Hồi nên cấm người gốc Mă ăn thịt heo. Tuy nhiên hai sắc tộc khác là Hoa và Ấn th́ không bị ràng buộc bởi luật này. Thầu nấu ăn trong trại là người gốc Ấn nên ngày nào chúng tôi cũng ăn cà ri gà. V́ người gốc Mă nắm chính quyền nên thuyền nhân trong trại cũng bị cấm ăn thịt heo. Tuy nhiên, tôi có một thằng đệ tử làm an ninh trong trại, mấy bà Tàu sống gần trại muốn bán lén thịt heo cho thuyền nhân phải hối lộ nó nửa kư. Do đó nó có biệt danh là "Chúy Dĩ"  (tiếng Hoa, nghĩa là thịt heo). Nhờ vậy . ngày nào tôi cũng có thịt heo ăn. Nó từ Bidong chuyển sang đây đẻ phỏng vấn đi Mỹ nhưng bị từ chối nên đang chờ tàu trở về Bidong , Nó nhờ tôi xin với cố vấn trường Pháp cho nó đi học tiếng Pháp để xin định cư ở Pháp.

Trường Pháp thường tổ chức chiếu phim tại hội trường của trại. Chỉ có cố vấn, hiệu trưởng , giáo sư và các học sinh trường Pháp mới được vào xem., c̣n các thuyền nhân khác đu cột bên ngoài để "xem cọp" (từ ngữ chỉ xem hát trộm, không mua vé). Tôi được xem lại những phim trước 75 nổi tiếng của Pháp như Fanfan La Tulipe, Sissi l' Impératrice, Fantômas,,,

Thỉnh thoảng tôi được cố vấn cho đi theo các thuyền nhân được Pháp nhận đến ṭa đại sứ Pháp ở Kulua Lumpur làm thông dịch cho họ để làm thủ tục nhận vísa đi định cư. Những dịp đó giúp tôi biết thủ đô Mă Lai là một thành phố khá đẹp và sạch sẻ.

Khi trưởng khu C đi định cư, Nguyễn Phú Hùng nhờ tôi về thay thế và để anh Hưng làm hiệu trưởng trường Pháp Văn.. Khu C là khu ở của các "chức sắc" trong trại (những người làm trong ban đại diên trại). Tôi và Trà Văn Gởi cùng một số "chức sắc " khác thường tổ chức ăn nhậu trong khu này không quên đặt đàn em canh gácở cổng vào để báo hiệu khi cảnh sát Mă Lai đi tuần tra

Tết năm 1988, tôi làm trưởng ban tổ chúc hội chơ Xuân trong trại để gây quỹ cho ban đại diện trại. Thuyền nhân được vui chơi và cờ bạc trong 3 ngày Tết. Tôi cho lập các ṣng bài, bầu cua, quây số, tài xỉu. Mọi người trong trại được vui chơi thỏai mái.

Ở trại này tôi lại gặp một vài người quen như Quang con trai của bác Tặng, cũng hành nghề may như ba tôi ở chợ Cầu Cống. Khi c̣n là sinh viên tôi có dạy kèm Minh, anh của Quang và Tâm, chị của Quang. Quang có vợ và một con. Vợ chồng Quang nấu xôi bán cho các thuyền nhân trong trại.

Ông Jacques măn hợp đồng làm việc ở Mă Lai về nước chuẩn bị luận án tiến sĩ của ông. Cô Jacqueline vào thay thế. Sau này cô quen với cố vấn phái bộ Canada , lập gia đ́nh với ông ấy và được bảo lănh sang Canada,

Để chuẩn bị làm lại một cuộc đời mới ở Canada, tôi phải học một  khóa "Đời sống Canada ".  Trong phần "Dự định làm nghề ǵ ở nơi định cư", tôi ghi không cần suy nghĩ::thầy giáo.  Nhưng không bao giờ tôi có dịp hành nghề này!

Giữa tháng 4 năm 1988 tôi có visa định cư ở Canada sau một năm rưởi ở các trại tỵ nạn Mă Lai. Ngày rời trại, tôi và các thuyền nhân đi định cư ở Canada dược phát mỗi người một ổ bánh ḿ và một quả trứng luộc. Máy bay quá cảnh ở Singapore, trong khi chờ lên máy bay khác, chúng tôi ngồi ăn bánh ḿ với trứng luộc một cách ngon lành trước cặp mắt ṭ ṃ.của các hành khách khác.

Trên máy bay, tôi ngồi kế bên một người Anh, ông ta cho biết ông là một thương gia đang làm ăn ở Singapore và nay về nước nghỉ ngơi và thăm gia đ́nh. Ông ta gọi cho tôi những thức ăn ngon nhứt trên máy bay. 

Khi máy bay dừng ở Luân Đôn, một nhân viên IOM đến chăm sóc chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi ra cổng chuyến bay đi Canada..

Từ Luân Đôn đi Toronto, tôi ngồi gần một hành khách người Canada. Ông ta cho biết. ông là chủ một nông trại và hỏi tôi có muốn về làm việc ở nông trại của ông ta không. Tôi dè dặt về ḷng tốt của ông này nên chỉ xin địa chỉ của ông ta và hứa sẽ liên lạc với ông sau.

Tới Toronto, tôi lại phải làm thông dịch cho những người định cư ở thành phố này để làm thủ tục nhập cảnh vào Canada và sau cùng là cho tôi. Tôi là người duy nhứt tiếp tục cuộc hành tŕnh tới Montréal.

Xuống phi trường Dorval, khi ra đến khu vực người đến đón, tôi trông thấy em gái tôi với cái bụng bầu đă to với chồng nó mà tôi nhận ra nhờ đă xem những tấm h́nh đám cưới của hai đứa gởi qua trại tỵ nạn cho tôi, bên cạnh đó là vài người hàng xóm cũ ở Việt Nam.

Rồi đây, tôi sẽ bắt đầu một cuộc sống mới ở thành phố này