Chương 8-
Trại cải tạo
Một đêm cuối tháng 6 năm 1975, tôi
và những người sĩ quan cấp úy của Quân Lực VNCH trình
diện tại trường trung học Pétrus Ký bị lùa lên những chiếc xe Molotova che bạt bít bùng chở đi giữa lòng Sài Gòn trong khi mọi người đang ngủ say. Chúng tôi không biết họ chở chúng tôi đi đâu và sẽ làm gì chúng tôi. Ai nấy đều hoang mang, nhứt là khi trông thấy có hai anh bộ đội mang súng AK54 ngồi phía sau.
Độ một giờ sau, đoàn xe dừng lại. Một anh bộ đội nhảy xuống xe nói vọng vào xe: anh nào
cần đi "giải" (đi
tiểu)
thì xuống xe đi "khẩn trương" (nhanh) lên.
Một vài người leo xuống, anh ta cầm súng đi theo. Anh bộ đội kia vẫn ngồi trên xe trông chừng những người còn lại. Khi mọi người trở lại xe thì đoàn xe chuyển bánh đi tiếp.
Khi trời tờ mờ sáng thì đoàn xe dừng lại. Chúng tôi được lệnh leo xuống xe và đứng xếp hàng. Một vài người nói nho nhỏ: phi trường Trãng Lớn, Tây Ninh. Tháng
1 năm 1969 chiếc phi cơ C123 của không quân VNCH chở tôi đáp xuống đây trước khi về phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày đó, tôi vừa được quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ cho xuất viện sau khi điều tri vết thương trong cuộc đụng độ với Việt cộng tại mặt trận Giáp Nước, Vĩnh Long trước đó. Tôi lên phi trường Vĩnh Long xin quá
giang các anh phi công
về Sài Gòn và ghé ngang phi trường Trảng Lớn.
Một số cán bộ tại chỗ đã đứng sẵn đón chúng tôi và cùng các anh bộ đội mang súng chia chúng
tôi ra từng nhóm, mỗi nhóm được đưa vào một căn nhà dài. Vào trong, họ bắt nhóm chúng tôi ngồi xuống và chia chúng tôi thành ba nhóm nhỏ gọi lần lượt là A1, A2 và
A3 (A là tiểu đội). Cả nhóm tôi thì được đặt là B1 (B là trung đội). Còn nguyên đoàn chúng tôi là K5 (K là đại đội).
Sau khi chúng
tôi chia chỗ nghỉ
và cất đồ đạc
thì một anh bộ đội có mang súng đến căn nhà chúng tôi bảo lấy ba người đi lãnh gạo và nồi về nấu cơm cho cả B ăn. Anh bộ đội dẫn ba anh ấy đi rồi một lát sau trở về với hai bao gạo và một cái nồi to tướng.
Một số anh tình nguyện làm "anh nuôi"(nấu bếp). Họ chạy đi tìm những cục gạch để kê làm bếp và những cành cây hay khúc gỗ quanh đó để làm củi. Họ lấy nước ở một vòi nước gần đó. Khi cơm nấu xong, các
anh nuôi phân phát cho mọi người. Ai cũng mang theo đồ ăn cho mười ngày nên có cơm thì mọi người ăn rất ngon lành.
Những ngày
sau, chúng tôi nằm chờ giờ cơm
và đếm từng ngày
mong đến ngày
thứ mười. Rồi ngày
thứ mười cũng
đến nhưng
chúng tôi chẳng thấy gì
xảy ra. Mọi người trở nên bi quan. Có người đoán phải học
chính trị xong mới được về. Có
người đoán chắc không có
ngày về.
Cành cây khô,
gỗ vụn... chung quanh trại không
còn nữa,
chúng tôi phải cưa
những cây dầu
làm trụ điện để làm cũi.
Cán bộ
bắt chúng tôi đào
hố chôn những máy móc
trong phi trường như
máy cắt,
máy tiện, máy cưa,
máy đèn...họ cho là
đồ của Mỹ, Ngụy không
nên dùng!
Một tháng
trôi qua, một đêm nọ, cán
bộ bảo chúng
tôi thu xếp hành trang để chuyển trại. Có
người ngây
thơ nói chắc là
họ thả mình
về. Nhưng đa số tin rằng họ sẽ đem
giam chúng tôi ở chỗ khác.
Cũng cảnh mấy anh vệ binh áp tải chúng
tôi lên xe molotova phủ bạt bít
bùng và khởi hành
giữa đêm khuya như lần ở trường Pétrus Ký.
Khi đòan
xe dừng lại đổ chúng tôi
xuống một doanh trại. Vài
người kêu
lên; Long Khánh. Thì
ra họ là những
sĩ quan của sư đoàn 18 nên biết địa điểm này.Chúng tôi được đặt tên
là K3 (đại đội 3) nằm trong T4 (tiểu đoàn
4) ở chung một doanh trại với các
K khác. Tôi ở B3 (đại đội 3), gồm toàn
sĩ quan gốc giáo chức. ở chung trong một nhà
dài. B trưởng là
Sơn
già, một
anh giáo viên tiểu
học người Bắc lớn tuổi nhứt trong B. A trưởng A1(tiểu
đội 1) của
tôi là Sơn
nhỏ, một giáo
sư đệ nhứt
cấp người Nha Trang. T5 nằm ở doanh trại bên
cạnh.
Ngày
hôm sau, khối chúng tôi
được tập hợp ngoài
sân để quản giáo
nói chuyện. Anh ta nói rằng chúng
tôi được chuyển về đây
để học chính
trị, học xong chúng tôi sẽ được thả về
sum họp với gia đình.
Anh ta còn nói thêm,
sở dĩ chúng tôi
phải học chính
trị
là
để trở thành” người tốt trong xã hội
mới”. Chúng tôi
có “nợ máu
với nhân dân”
nhưng đảng khoan hồng không
giết chúng tôi mà
chỉ muốn cải tạo chúng
tôi thành người hữu
ích. Tôi nhớ lại câu
nói để đời của
tỏng thống Nguyễn Văn
Thiệu: "Đừng nghe những gì
cộng sản nói,
hãy nhìn kỷ những gì
cộng sản làm"
mà nghĩ rằng ngày về với gia đình
của mình vẫn còn xa. Trước khi chúng tôi
đi trình diện họ bảo mang thức ăn,
tiền bạc đủ dùng cho 10 ngày nhưng đến nay hơn một tháng
mà ngày về đâu
chưa thấy.
Sau vài
ngày lao động lòng
vòng trong trại, chúng
tôi bắt đầu được phát
giấy bút để bắt đầu học tập
chính trị. Chúng
tôi được tập
trung tại hội trường để nghe chính
trị viên T4 giảng
bài. Tôi còn
nhớ có tất
cả 10 bài học
chính trị có
chủ đề: Đế quốc Mỹ
xâm lược nước ta là kẻ
thù của nhân
dân ta, Ngụy
quân, ngụy
quyền, tay sai của
đế quốc
Mỹ là kẻ
thù của nhân
dân ta...và bài
cuối cùng là
Lao động là
vinh quang. Thời gian học
các bài chính
trị kéo dài
khoảng một tháng,
sau mỗi bài học
chúng tôi chia thành tổ
thảo luận
rồi bình bầu
cá nhân xuất
sắc Mỗi người làm
một bài thu hoạch
nộp cho quản giáo
(cai tù).
Học
xong các bài chính
trị, nhiều người “hồ
hởi” (vui mừng)
tin rằng
mình sắp được thả về,
Riêng tôi vẫn
nghĩ rằng mình sẽ
còn bị giam giữ
lâu dài. Cứ
vài ngày, chúng
tôi phải làm
và nộp cho quản
giáo một tờ
khai “lý lịch
trích ngang”. Ban đầu tôi tưởng những giấy
tờ này sẽ
được cán
bộ giữ để nghiên cứu
và điều
tra “quá trình” hoạt động của chúng
tôi trong hệ thống
chính quyền và
quân đội VNCH. Nhưng một hôm
khi đi vệ sinh, tôi
bắt gặp những
tờ tự khai
của đám cải
tạo chúng tôi
nằm phía dưới hố tiêu.
Tôi nghiệm ra rằng
đám quản giáo
chẳng
buồn xem các tờ
khai đó làm gì
mà chỉ dùng
theo bản năng. Có
nhiều anh cải tạo
cố nặn óc
khai cho mình nhiều
tội với “cách mạng”
như anh lám thầy
giáo tự tố
cáo mình đã
đào tạo học
sinh thành ‘lính
ngụy ác ôn”, anh bác sĩ
quân y tự thú
đã chữa lành
cho những tên”đồ tể” trong quân lực VNCH. Họ nghĩ
rằng nếu họ
‘thành thật
khai báo” thì
sẽ được “cách mang khoan hống” cho về sớm!
Rồi
thời gian trôi qua, chúng tôi tiếp
tục cuộc sống
của những tên
tù khổ sai. Quản
giáo phân công
chúng tôi làm
những công việc
khác nhau trong trại.
Về phần ăn
uống, họ cho một số
người trong khối làm “anh
nuôi” nấu
mỗi bữa ăn
một chão cơm
khổng lồ rồi
phân phát cho các
B, rồi B phân phối
cho các A. Mọi người trong A ngồi
quanh quần bên rổ cơm. Một anh đến phiên trực
chia đều cơm
cho mỗi người. Cũng
nên thông cảm
vì bản năng
sinh tồn, có nhiều
anh chia cơm đà
ém chặt phần
cơm của mình
cho nhiều hơn người khác. Các
anh làm trong nhà bếp
được hưởng phần cơm
cháy dưới đáy
chão như bonus. Thức ăn thì
mỗi người tự
lo lấy chứ trại
không cung cấp.
Tình
hình ăn uống
trở nên khá
hơn khi trại cho phép
tù gởi thơ
về gia đình để xin tiếp tế
thức ăn khô.
Thơ không được dán kín
để trại
kiểm soát nội
dung. Do đó anh tù
nào cũng nói
dối với gia đình
rằng mình đang
“lao động tốt,
học tập tốt” để chờ
ngày “cách
mạng khoan hồng tha cho về sum họp với
gia đình”. Không
biết từ lúc
nào người tù
cải tạo nhiễm
cách ăn nói
đao to, búa lớn
và sáo rỗng
như vậy dù
mới “học
tập” chưa
đầy một
năm, Bỡi vậy,
chúng ta đừng ngạc
nhiên khi về Việt
Nam nghe thấy những
danh từ “lạ”
(giống như tàu
“lạ” đâm
chìm tàu ngư
dân Việt Nam) tràn ngập trong xã hội Việt
Nam như: hoành tráng,
ấn tượng, ùn
tắt, siêu xe, đại gia, biệt phủ..thay
cho những từ ngữ
dễ hiểu như
to đẹp. gây
chú ý, kẹt
xe, xe đắt tiền,
nhà giàu, biệt
thự...
Mỗi
người được phép nhận
4 kg quà do gia đình gởi
vô: đường, bột
ngọt, khô hay thịt
chà bông...đặc biệt là
thuốc tây. Ở
trong trại, mỗi khi tù
bị bệnh lên
trạm xá (trạm
y tế} xin thuốc thì
dù họ bệnh
gì cũng đều được phát
cho nhưng viên thuốc
“xuyên tâm
liên”. Kể
từ đó, người tù đỡ lo hơn về
mặt dinh dưỡng và
sức khỏe, chỉ
tội những người tù “con
bà phước”
(không có thân
nhân) thì chỉ
biết thèm thuồng
nhìn những người bạn tù
tốt số hơn
mình.Dĩ nhiên
vẫn có người hão tâm
chia sẻ cho họ nhưng
làm thế nào
cho đủ.
Một
hôm, gần cuối
năm âm lịch
1975, tôi và một
số bạn tù
được lệnh
đi xuống cuối
trại khiêng những
tấm vĩ sắt
PSP về khối để lót phía
sau nhà bếp. Trước đây, có
lẽ những tấm
vĩ này được lót để cho trực thăng
đáp xuống tiếp
tế cho trại vì
ở gần đó
có nhiều nhà
vòm bằng sắt
để chứa
các quân dụng
được tiếp
tế. Khi tôi và
một người bạn
tù ì ach khiêng
tấm vĩ sắt
nặng nề trở
về khối thì
bỗng có tiếng
nổ lớn bên
hông trại rồi
hàng loạt tiếng
nổ khác tiếp
tục vang lên. Chúng
tôi bỏ vĩ
sắt xuống chạy
vào một nhà
vòm trú ẩn.
Tiếng những mãnh
đạn hay bom chạm vảo nhà
vòm làm chúng
tôi bạt vía.
Tôi tự nghỉ
khi còn chiến tranh mình không chết
nay hòa bình rồi
mình lại chết
vì bom đạn hay sao?
Chúng
tôi đợi khá
lâu sau khi dứt tiếng
nổ mới chui ra khỏi nhà vòm.
Chúng tôi quan
sát thấy la liệt
mảnh bom đạn đầy trên mặt
đất. Quả
là chúng tôi
còn may mắn nếu
không có chõ
ẩn nấp thì
chúng tôi đã
tan xương, nát
thịt. Trở về
khối chúng tôi
được biết
có một số
ít tù bệnh
nằm ở nhà
bị chết. Ngoài
ra có một anh trung úy bác sĩ
quân y làm ở
trạm xá cũng
bị chết. Tôi
còn nhớ tên
anh ta là Nguyễn Đăng Chương Dương. Còn về
số thương vong phía bộ đội tôi không
rõ nhưng chắc
là nhiều lắm
vì họ ở
nhà. Nơi phát
xuất vụ nổ
là kho đạn cũ
của sư đoàn 18 sát bên
hông của trại.
Nguyên
nhân vụ nổ
là do một anh bộ
đội coi kho đốt dây
chuyền nổ làm
pháo bông chơi.
Tiếng nổ vang vọng
tới Sài Gòn
khiến thân nhân
những người tù
cải tạo đổ xô lên
Long Khánh do la tin tức
người nhà.
Vợ tôi nhờ
em họ tôi trông
dùm thằng con mới
được mấy
tháng cùng má
vợ tôi đáp
xe lửa mỗi ngày
lên Long Khánh để tìm tôi.
Nhưng chính sách
của những người cộng sản
là giũ bí
mật nơi giam giữ tù cải
tạo nên vợ
tôi chỉ biết
khóc bù lu bù
loa chớ không sao gặp
được chồng,
Tết
năm 1976, cái tết
đầu tiên
trong trại cải tạo
làm cho tôi thắm
thía thân phận
một người thua trận. Dù bị
cấm, đêm giao thừa chúng tôi
tụ họp ngoài
sân đồng ca bản
Ly rượu mừng
của Phạm Đình
Chương. Tiếng
hát vang lên trong đêm
cuối cùng của
năm khiến mọi
người nhớ
tới những đêm
30 của những năm
sống trong chế độ tự do, những
thời gian hạnh phúc
mà chúng tôi
không biết.
Cũng
trong trại cải tạo
Long Khánh, tôi cảm
xúc hoàn cảnh
của mình nên
có làm một
vài bài thơ.
Không phải là
thi sĩ nên thơ
tôi chắc không
hay nhưng đó là
tất cả nỗi
lòng của tôi.
Mưa khuya
Nửa đêm thức
giấc nghe mưa
Như sầu rơi
rụng giọt thưa
giọt dầy
Sầu rơi lai láng
đêm ngày
Đọng thành
hồ lệ chưa
đầy hay sao
Nửa năm như
giấc chiêm bao
Tỉnh cơn ác
mộng niềm đau
vẫn còn
(Trại cải tạo
Long Khánh, đêm mưa
cuối mùa 1975)
Đêm sinh nhựt
Sáo ai cất giữa
đêm đông
Khúc buồn “Đêm
thánh vô cùng” ngày xưa
Lâng lâng tôi
đắm trong mơ
Nhớ mùa Sinh Nhựt nên thơ
năm nào
Đưa em đi
dạo bến tàu
Đen treo sáng rực đón
chào Chúa sinh
Năm nay Sinh Nhựt
một mình
Ngắm trời sao sáng
mông mênh nỗi
buồn.
(Trại cải tạo
Long Khánh, Noel 1975)
Chiều nhớ
Khói lam chiều tỏa
xa xa
Quyện trong mây gió
nhớ nhà bâng
khuâng
Còn bao lâu nữa
đến xuân?
Ngày về không
biết đã gấn
hay chưa
Xa
nhau từ buổi gió
mưa
Thoắt đà sáu
tháng ước mơ
chập chùng
Ướ mơ
giây phút tương phùng
Tơ duyên căng
lại dây chùng
bấy lâu
(Trại cải tạo
Long Khánh, cuối năm
âm lịch 1975)
Xuân chia ly
Xuân về trại
vắng buồn tênh
Nghĩ thương cho nỗi
lênh đênh phận
mình
Nước nhà
nay đã thanh bình
Sao
còn chia cắt thâm
tình nữa chi
Làm cho lệ ướt hoen mi
Người cô
phụ trẻ mỗi
khi đêm về
Ôm con trông
ánh trăng thề