Chương
7- Cuộc
đổi đời: 11 năm ở lại Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, một ngày sau khi
Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam làm chủ Sài G̣n th́ Ủy
ban Quân Quản Sài G̣n Gia Định kêu gọi
các công chức chế độ cũ
đến tŕnh diện
tại
nhiệm
sở
của
ḿnh. Tôi đến Trung Tâm Giáo Dục Hồng
Bàng với tâm trạng hoang mang cũng như các đồng
nghiệp
khác. Thật giống như hai câu
thơ Kiều:
Bó thân về với triều đ́nh,
Hàng thần lơ láo phận ḿnh ra đâu?
Không thấy các giáo sư của phái bộ
văn hóa
Pháp đến tŕnh diện, th́ ra họ là công dân Pháp đâu có bị
ràng buộc bởi nhũng
quy định dành cho công chức
người Việt như chúng tôi. Mọi người tập trung trong pḥng giáo sư, có cả
hai anh chị lao công trong trường tham dự.
Không khí thật nặng nề. Có một người đàn ông và một người đàn bà lạ mặt mặc đồ bộ đội ngồi ở bàn chủ tọa. Họ tự giới thiệu là người của cách mạng đến tiếp quản trường . Sau một hồi nói về chính sách của Chánh Phủ
Cách Mạng, họ phân công cho mọi người.
Chị
Bùi Thị Mạnh, giáo sư Triết, em của bà Bùi Thị Mè, thứ trường trong Chánh Phủ Cách Mạng
làm trưởng ban điều hành trường thay anh Lâm Vơ
Quỳnh
, anh này được giao phụ trách ban đời sống (như ban
tiếp liệu),
tất
cả
giáo sư được gọi lại là giáo viên. Trong hệ thống
giáo đục trước đây của miền Nam th́ chỉ có người
dạy
tiểu
học
được gọi là giáo viên (instituteur), c̣n những
người dạy bậc trung học, cao đẳng và đại học đều được gọi là giáo sư
(professeur). Dĩ nhiên ai nấy
đều cảm thấy hơi buồn ḷng.
Hai cán bộ tiếp quản cho biết ngày hôm nay là ngày lễ Lao Động,
ngày lễ lớn nhứt đối với hai giai cấp công, nông nên
nhà trường có tổ chức một cuộc biểu t́nh và diễu hành (diễn
hành) quanh khu phố . Các giáo viên của trường
phải
tham gia để xiễn dương
ư nghĩa của ngày lễ
và đồng thời vận động một số dân (đa số là thương,
phế binh VNCH) đang trú
ngụ
trong những căn cḥi bên lề đường phía sau trường về
quê lao động.
Những ngày sau, chúng tôi đến trường
làm những việc như nhặt rác, quét dọn..với
áo sơ mi bỏ ngoài quần, chân mang dép đối với
nam giáo viên, c̣n nữ giáo viên th́ quần đen, áo
bà ba. Chị Mạnh ngày trước thuộc đợt sống mới, áo dài màu hay bông, tay raglan, đi xe hơi dạy học. Nay th́ chị cũng mặc
áo bà ba, quần
đen đi xe đạp. Nghe nói chồng chị
là bác sĩ Trâm được Ủy Ban Quân Quản cử
làm giám đốc bệnh viện Nhi Đồng.
Chị Mạnh cho tất cả giáo viên làm một bản
khai lư lịch. Khi đọc bản khai của tôi chị nói: "ngạch trật
của
anh là giáo sư trung học đệ nhị cấp thượng hạng hạng tư à? Sao anh dạy học
có mười năm mà lên nhanh vậy. Tôi mới
có hạng
ba". Tôi nhủ thầm: "Chị ơi,
nay đổi đời
rồi,
bây giờ chị là xếp của tôi".
Ngày 23 tháng 6 năm 1975, các sĩ quan VNCH ở Sài G̣n từ
thiếu
úy đến đại úy phải tŕnh diện đi học tập cải tạo và được hướng dẫn bằng thông báo trên đài phát thanh cũng như các
loa ở
phường là phải mang giấy bút, quần áo, vật dụng cá nhân, lương thực đủ dùng trong 10
ngày. Các sĩ quan cấp tá và tướng được hướng dẫn mang đồ dùng cho một tháng. Ai nấy tin tưởng
rằng
ḿnh sẽ đi học tập một thời gian ngắn rồi được trả về gia đ́nh v́ trước dó các hạ sĩ quan
và binh lính chỉ
học
tập
trung cải tạo có 3 ngày tại chỗ,
Buổi chiều hôm đó vợ tôi chở tôi bằng xe Honda vào tŕnh diện ở
trường Pétrus Kư với
những
thứ
lỉnh
kỉnh
dự
trù cho 10 ngày. Khi từ giả chúng tôi hẹn gặp
lại
trong hơn một tuần nửa. Những người đi tŕnh diện học tập được cho vào các lớp học
chọn
một
chỗ
để nghỉ ngơi. Lát sau có xe của nhà hàng Đồng
Khánh đến đem
cơm chiều cho chúng tôi. Ai
nấy
đều hân hoan v́ đi học tập
mà được ăn nhà hàng và tin rằng sáng mai sẽ
bắt
đầu học tập tại đây. Đêm hôm đó trời mưa tầm tả như báo hiệu một ngày mai vô định.
Hai ngày ở tại trường Pétrus Kư tôi
không thấy ǵ thay đổi : chúng tôi vẫn ngồi
tụ
tập
tán gẫu
và chờ
đợi giờ cơm. Có người bạo dạn đến hỏi thăm các anh bộ đôi canh gác trong trường th́ các anh ấy
chỉ
lắc
đầu trả lời là không biết ǵ.
Đêm
thứ
ba, chúng tôi nghe tiếng xe hơi rầm rập ngoài cổng.
Một
lát sau các anh bộ
đội vào từng pḥng gọi tên từng người rồi dẫn ra xe molotova phủ bạt
bít bùng. Đoàn xe di chuyển qua các đường
trong thành phố và đi về hướng nào chúng tôi không biết. Không ai dám dở
bạt
xem ḿmh bị chở đi
đâu v́ có hai anh bộ
đội mang AK ngồi đàng
sau. Độ hai tiếng sau, có anh ngồi cạnh
tôi bạo
dạn
dở
hé tấm
bạt
lên, tôi nh́n qua trông thấy trời đang tờ mờ sáng và xe đang chạy ngang một
sạp
báo có hai cô gái mặc đồ bộ đang nói chuyện với nhau. Anh này nói khẻ với
tôi: Tây Ninh. Thật vậy chúng tôi được chở
tới
phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh.
Rồi qua hai năm ba tháng
tôi trải qua nhiều trại cải tạo: Trảng Lớn, Long Khánh, Ka Tum và cuối cùng là Hàm Tân
trước khi được thả ra.
Đầu
tháng 9 năm 1977, trong
trại học
tập
chúng tôi có một số sĩ quan
biệt phái gốc
giáo chức được thả ra trong đó có anh Nghiêm Dũng cùng ở
quận
4 với
tôi, anh Vân người nấu ăn
chung với tôi trong trại
. Tôi nghe nói giáo chức
được thả về sớm và được cho dạy học lại v́ các trường học thiếu thầy giáo. Trước đó cũng có một số bác sĩ
được thả
về
làm việc trong các bệnh viện.
V́ vậy
tôi hy vọng ḿnh cũng sắp sửa được thả ra.
Vài tuần sau, tôi và một số
người khác được thả. Chúng tôi ra khỏi cổng
trại
và băng qua quốc lộ vào một xóm nhà đối diện với trại . Chúng tôi vào một quán ăn làm
một
chầu no bụng và khoái khẩu
để bù lại những ngày thiếu thốn trong trại. Xong, chúng tôi đón
xe đ̣
về
Sài G̣n. Những người khách trên xe nhận ra ngay chúng tôi
là những
người đi học tập cải tạo vừa được thả về. Tôi xuống xe trên đường Trần Quốc Toản và gọi xe xích lô máy về nhà ở
quận
4.
Tôi về đến nhà trong sự vui mừng
bất
ngờ
của
gia đ́nh,
nhứt
là vợ
tôi. Nàng đă dẫn con tôi đi
thăm nuôi và gặp
tôi ở
trại
Katum và trại Hàm Tân, nhưng lần này nàng mới
tin rằng
lần
gặp
gở
này sẽ
không c̣n phải bịn rịn chia tay nữa. Và thằng
con chưa đầy hai tuổi của tôi sẽ biết rơ người cha của nó là ai không như trong những lần
đi thăm nuôi, miệng nó kêu ba ơi nhưng không biết
ba nó là ai trong số những người học tập cải tạo chung quanh nó.
Công việc đầu tiên tôi phải làm là đi tŕnh
diện
công an khu vực ở khu phố tôi. Sau đó, quận có một buổi tâp trung các người vừa
được thả ra từ trại cải tạo để nói chuyện tại rạp Nam Tiến. Chúng tôi rất lạc
quan khi nghe cán bộ thuyết tŕnh viên nhấn mạnh
trong bài nói chuyện: "chúng tôi là những người
chỉ
biết
đi chiến đấu không có tŕnh độ văn hóa,
kỷ
thuật,
khoa học như các anh v́ vậy chính những người có tŕnh độ như các anh sẽ là những người cần thiết để xây dựng đất nước sau này".
Vài ngày sau, thành phố tổ
chức
một
lớp
học
tập
chính trị cho các giáo chức là sĩ quan biệt phái tại trường Taberd, đường Gia Long. Giám đốc Sở
Giáo Dục Thành Phố là Phạm Chánh Trực, sinh viên trường Đại
Học
Khoa Học Sài G̣n, thoát ly
theo Mặt Trận Giải Phóng năm
1968. Anh là người
chủ
tŕ khóa học. Các học viên được chia thành từng tổ.
Tôi ở
chung tổ với anh Phan Bửu Giá, trước
75 là hiệu trưởng trung học Giồng Trôm, Bến Tre. Sau những bài giảng
chính trị do cán bộ Sở Giáo dục phụ trách, mỗi tổ chúng tôi thảo luận.
Cuối
cùng , mỗi người trong tổ làm bài thu họach và đọc
lên cho tất cả người trong tổ nghe. Anh cán bộ phụ
trách ngày thu hoạch lắng tai nghe tôi đọc bài thu hoạch
và nói tôi đưa cho
anh bài thu hoạch
của
tôi. Phan Bữu Giá nói nhỏ với
tôi:"Bài thu hoạch của mày viết hay quá, cán bộ chịu
rồi
đó."
Măn khóa học chính trị, tôi về pḥng Giáo Dục Quận
4 th́ anh Hồ
Hữu
Tâm, bạn của tôi từ trước 75, đang làm cán bộ ở đó dẫn tôi đến trường Nguyễn Trăi giới thiệu tôi với anh Hải, hiệu trưởng ở đó. Thế là tôi trở thành "giáo viên" trường
nguyễn
Trăi kể từ đó.
Tôi về dạy trường Nguyễn Trăi từ niên khóa 1977-1978, lúc đó anh Hải
là hiệu
trưởng, anh là Hứa Doanh Trung là hiệu
phó học
vụ, anh Phạm Văn Mạnh
là hiệu
phó lao động, anh Xương
cũng là hiệu
phó nhưng phụ trách công tác ǵ tôi đă quên. Anh Mạnh
thấy
tôi c̣n trẻ nên mời tôi vào ban lao động của
anh. Thế là ngoài giờ dạy
học
, thỉnh
thoảng
tôi dẫn
học
sinh đi làm
lao động trong sân trường: lót gạch
những
chỗ
ngập
nước, lượm rác, quét dọn...những
việc
trước 1975 là của lao công trường. Lao công trường
là chú Bảy và chị Bé, bây giờ được gọi là bảo vệ. Trường có ban đời sống do một giáo viên phụ trách để
lo mua nhu yếu phẩm: thịt, đường, bột ngọt,thuốc lá, vải
vóc, ...về phân phối
cho giáo viên. Đến ngày phân phối nhu yếu
phẩm
th́ trường trở thành cái chợ để
mọi
người đến mua hàng. Việc này chưa bao giờ có trong trường học
ở
miền
nam trước năm
1975. Ngày đó
lương giáo sư
dư dă, ai muốn
mua sắm
ǵ th́ cứ ra các cửa hàng bên ngoài. Bây giờ lương giáo
viên khi bắt đầu vào biên chế chỉ
có 60 đồng nếu ra ngoài mua hàng th́ chẳng đủ
dùng cho bản thân, nói chi đến gia đ́nh.
Trước khi đi học tập vợ tôi có bầu đứa con trai, khi về th́ nàng sinh thêm
cho tôi một đứa con gái nữa. Cả nhà 4 người sống với số lương
đó thật
là chật
vật.
C̣n nhớ một đêm tôi đang dạy học lớp bổ túc văn hóa ở trường Nguyễn Trăi th́ thằng em vợ
chạy
vào trường báo tin vợ
tôi đă
chuyển
bụng,
người nhà đă đưa
nàng vô nhà bảo
sanh Bích Liên ở đường Bến Vân Đồn , hẻm Chủ Phước gần Cầu Chông. Tôi lật đật
cho học
sinh nghỉ học và chay lên nhà bảo sanh. Đang ngồi
chờ
bên ngoài không bao lâu th́ cô mụ bước
ra cho biết vợ tôi đă sanh. Nh́n thấy tôi đang hồi
họp
chờ
đợi để biết vợ tôi sanh con trai hay con gái, cô mụ
cười nói"ông đừng lo nữa,
bà ấy
sanh con gái". Thật
t́nh đang mong muốn có một đứa con gái cho cân bằng v́ nếu
có thêm một thằng con trai nữa th́ chúng quậy
chịu
sao nỗi.
Sáng hôm sau tôi ra chợ Hăng Phân gần nhà bảo
sanh Bích Liên để mua một cái núm vú cao su cho con gái tôi lại
nhằm
gian hàng của một em học sinh nữ của trường. Em hỏi tôi" thầy mua núm vú làm
ǵ?" làm tôi ngượng chín cả người.
Đầu
năm 1979 , sau khi bộ đội Việt Nam đă chiếm đóng toàn bộ Kampuchia (Cao Miên) đuổi quân Khmer Đỏ
vào rừng,
Một
buổi
sáng, tất cả giáo viên chúng tôi được triệu
tập
vào trường Nguyễn Thị Minh Khai (nữ trung học
Gia Long cũ) để học tập chính trị. Chúng tôi ngỡ ngàng khi chủ
đề khóa học này là để chống "bọn bành trướng" Bắc Kinh. Từ trước tôi biết chính Liên Xô và Trung Quốc đă
giúp đỡ cho miền Bắc trong chiến tranh Việt Nam đến thắng lợi năm
1975. Bây giờ
tại
sao lại
có việc
chống
Trung Quốc?
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc
xua quân đánh vào các tỉnh phía bắc
Việt
Nam và Đặng Tiểu B́nh tuyên bố là cho Việt
Nam một
bài học.
Đó
là bài học tại sao Việt Nam dám xâm chiếm Kampuchia.Gần
một
tháng sau quân Trung Quốc mới rút về nước sau khi tàn phá một số
thành phố, thị trấn gần biên giới và sát hại nhiều người dân Việt Nam vô tội. Thương
vong cả hai phía lên tới
vài chục ngàn người.
Giáo viên và học sinh trường
Nguyễn
Trăi được lệnh xuống Nhà Bè đào đất để làm những ổ pḥng thủ. Anh Mạnh và tôi trong ban lao động phải
"động viên" các em
tích cực đào đất. Người ta đề pḥng chiến hạm Trung Quốc theo ḍng ḶngTào tiến vào Sài G̣n. Chuyện
này không bao giờ xảy ra, duy thầy tṛ chúng tôi khi
đi th́
quần
áo sạch
sẽ,
khi về
th́ quần áo lấm lem bùn śnh.
Về sau, anh Hải đổi đi
nơi khác, chị
Mai sau khi nghỉ hộ sản về thay thế làm hiệu trưởng, anh Xương
v́ là người gốc
Hoa nên không c̣n làm hiệu phó và chị Lịch về thay. Thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đ́nh tôi, chị Mai cho vợ tôi vào trường làm ở căn tin
như một nhân viên ngoài
biên chế để kiếm thêm thu nhập. Tôi cũng bắt
đầu mở các lớp ở nhà dạy thêm từ luyên thi vào lớp 10, tốt
nghiệp
phổ
thông cho đến luyện thi vào đại học. Tôi mời thêm anh Phan Văn Phùng dạy
toán, anh Tôn Thất Chứng dạy hóa, Trần Xuân Hải dạy lư, Nghiêm Dũng dạy văn phụ
giúp tôi. Anh công an khu vực đến nhà tôi hỏi tôi dạy học có giấy phép không, tôi trả
lời
là tôi chỉ "phụ đạo" (dạy kèm) cho các em học yếu.
Như vậy anh ta không có lư do ǵ để làm khó dễ
tôi.
Một điều lư thú ở trường Nguyễn Trăi là tôi gặp lại
rất
nhiều
bạn đồng nghiệp
là đồng môn toán của tôi : Huỳnh
Hoa, sau làm hiệu trưởng; Nguyễn Thanh Bá, hiện ở
quận
7, Sài G̣n; Nguyễn Văn Hồng, đă mất; Trương
Đức Ḥa, nay ở
hẻm
Chủ
Phước, Bến Vân Đồn, quận 4: Bùi Quốc Vượng nay ở
hải
ngoại.
Cũng tại trường Nguyễn Trăi tôi gặp lại
một
số
đồng nghiệp quen biết hay từng dạy chung ở một trường khác trước dó như anh
Hùynh Thành Tâm tức
nhà văn Huỳnh Phan Anh, em rễ của
bạn
tôi, nay ở Mỹ: chị Nguyễn Mộng Thúy, dạy chung với tôi tại Trà Vinh hiện cũng ở
Mỹ,
tôi có gặp chị trong dịp dự Đại Hội Nguyễn Trăi ở nam Cali năm
2011; anh Đoàn Viết
Biên, từng dạy chung với tôi ở Trà Vinh và Biên Ḥa; Mai Khắc Bích, dạy
chung ở một số trường tư Sài G̣n trước năm
1975, nay đă mất.
Đa số
giáo viên dạy cùng thời với tôi ở trường Nguyễn Trăi đều được đào tạo trong miền Nam trừ một số ít gọi là giáo viên chi viện đến
từ
miền
Bắc
như chị Mai, chị Lịch, cô Thục, anh Bảy...Những người kỳ cựu xuất thân từ đại học sư phạm Sài G̣n trước năm 1975 ngoài
những
người tôi quen biết kể
trên, tôi c̣n nhớ có anh Trung, anh Mạnh,
anh Can, anh Chung, anh Bích, anh Cẩm, anh Chứng,
anh Phùng, anh Khoan, anh Ung Thành Hải, anh Phạm
Gia Tuyên, anh Vũ Tuyên, anh Hiệu,
anh Lê Triều Vinh, anh Ngạc, anh Trần
Thuần,
anh Đoàn,
anh Tám....và các chi như chị Bích Hà, tôi cũng gặp ở
Mỹ
năm 2011, chị Diệu Tố, chị Thủy (vợ anh Bá), chị Vinh, chị
Minh Châu...C̣n nhân viên văn pḥng tôi c̣n nhớ chị
Cúc làm ở thư viện, chị Sen thư kư; tôi cũng gặp hai chị này ở Cali, chị Lệ, anh Châu nay đă mất.
Tôi cũng nhớ cô Thắng dạy nữ công; anh Vinh, anh Phong và cô Phượng
dạy
thể
dục;
anh Vinh ở Mỹ nay đă mất. Ngoài ra về sau có một
số
thầy
cô giáo trẻ về trường như Trần Xuân Hải, Chí, Quân, cô Lan...
Năm
1979, sau việc Trung Quốc
phát động chiến tranh chống Việt Nam, chính quyền ban lệnh
tổng
động viên thanh niên từ 18 đến
35. Tôi và anh Ngạc dạy sử địa là hai thầy giáo thuộc "đợt sống cũ"
nhưng c̣n trẻ
phải
ra đăng kư nghĩa vụ ở trường Dân Cường. Dĩ nhiên chúng tôi không được "trúng tuyển"
v́ là sĩ quan chế độ cũ.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà nước
chủ
trương hợp tác xă hóa các doanh nghiệp tư nhân.
Ba tôi dẹp bỏ bảng hiệu tiệm may Huỳnh Tân của ḿnh, kết hợp tiệm may Phước Lợi ở ngoài đường Tôn Đản làm hợp tác xă may mặc. Từ
một
ông chủ ba tôi trở thành như một người làm công, sáng tới nhà chú Phước
Lợi
may cắt,
trưa về nhà ăn
cơm rồi trở
ra tiếp
tục.
Ba tôi thấy mất th́ giờ mà thu nhập chẳng bao nhiêu nên một thời
gian sau ba tôi rút khỏi hợp tác xă về nhà mở tiệm trở lại nhưng không đề bảng hiệu nữa. Các tiệm vàng KIm Hoa, Kim Phát, Hữu Tín và Kim Trang đóng
cửa
v́ không được phép kinh doanh. Chú Hữu Tín bày bán thuốc
rê trước nhà.
Chị hiệu trưởng Mai lấy lư do vợ tôi không phải là công nhân viên
của
trường nên lấy căn tin
lại cho chị
Bé phụ
trách. Vợ tôi đặt một cái bàn trước cửa
nhà ba tôi để bán sinh tố. Lúc đó vợ chồng tôi ở nhà vợ tôi trong chợ Cầu
Cống.
Con gái tôi mới được bảy tám tháng tuổi nên vợ
tôi để ở nhà nhờ một đứa em vợ trông coi giùm. Buổi tối,
nếu
không có giờ dạy bổ túc văn hóa, tôi ra quán sinh tố phụ
vợ
tôi. Một đêm, khi về nhà và lên lầu chúng tôi hốt
hoảng
khi bắt
gặp
con gái tôi đang ḅ từ cửa pḥng ra gần tới
cầu
thang. Vợ tôi bồng con tôi lên và khóc ngất. Chỉ
một
chút nữa th́ con tôi sẽ rơi xuống
cầu
thang. Th́ ra d́ nó dỗ nó ngủ trên giường xong th́ yên chí bỏ đi thâu
hụi.
Con tôi thức giấc lăn té xuống sàn và ḅ ra cửa. May là chúng tôi
về
kịp.
Vợ
tôi quyết định không bỏ con đi bán sinh tố nữa. Vợ tôi bày bàn ghế trước
cửa
nhà bán bia hơi. Chiều nào vậy, sau khi đi dạy về tôi và Trần Xuân Hải cũng làm vài ly ở quán bia mini trước cửa
nhà tôi.
Ít lâu sau mẹ vợ
tôi nảy
ra sáng kiến mở một quán nhậu. Chúng tôi đồng ư v́ má vợ
tôi nấu
ăn rất ngon. Tôi mướn sân nhà cô Gái,
trước 75 cha mẹ cô mở vựa bán cây ở đường Tôn Đản, khu vực phường 14. Buổi sáng vợ tôi đi chợ Bến Thành mua các thứ cần
thiết
về
cho mẹ
vợ
tôi chuẩn bị. Buổi chiều, quán mở cửa, mẹ vợ tôi là đầu bếp chính, vợ tôi phụ bếp c̣n tôi làm người chạy
bàn và tính tiền. Dần dần quán tôi đông khách, tôi phải mướn
thêm người phụ. Đối diện quán nhậu của tôi là quán nhậu của
ông Lâm Tồn, ông ta là một thầy
đờn có tiếng trong giới cải lương.
Sau này má vợ tôi đi buôn
hàng ở
tỉnh
nên vợ
tôi trở thành đầu bếp chính của quán.
Gần Tết năm
đó, cô Gái đ̣i
tăng tiền mướn chỗ và không cho chúng tôi bán trong những
ngày Tết. Do đó, sau Tết tôi mướn sân nhà của ông Bốn đối diện phường đội phường 10 để mở quán. Ông Bốn là người
Bắc
di cư, có
một
đời vợ trước ngoài Bắc, vào Nam ông lấy một
người vợ trong này và có một con gái. Tại
chỗ
mới
này, khách quá đông nên chúng tôi phải mướn
thêm vài người để phụ việc trong số đó có bà Lũy, mà khách quen trong vùng thường gọi
là Mai Lệ Huyền. Ngày nay, bà ấy mắc
bệnh
tâm thần, năm ngủ lang thang ngoài đường; lần
nào về
Việt
Nam vợ
tôi thường cho tiền bà mặc dù bà ấy không c̣n nhận ra chúng tôi nữa.
Ngoài ra chúng tôi c̣n mướn chị em con Gái Xẩm và thằng
Thung phụ việc cho chúng tôi. Khi mẹ con Gái Xẩm
gả
nó lấy
chồng,
nghe nói nó không cho chồng nó ngủ chung mà đạp thằng này xuống giường. C̣n thằng Thung về sau thành bê đê.
Quán tôi có một món đặc
sản:
chim sẻ rô ti, ăn rất ḍn và béo. Tôi nghĩ ra ḿnh nên đặt
tên quán là Chim Sẻ. Đúng là một cái tên định mệnh: quán tôi dời đổi
từ
chỗ
này đến chỗ khác như con
chim sẻ nay đậu
cành này, mai đậu cành kia. Từ đường
Tôn Đản đến đường Đỗ Thanh Nhơn; từ quận 4 sang quận 1 rồi quận 3, trở về quận 1 cuối cùng trở lại quận 4; từ Sài G̣n, Việt Nam sang Montréal,
Canada. Ngay khi vượt biên, vừa đặt chân lên đảo Pulau Bidong tôi nghe ai đó gọi
to: Chim Sẻ.
Tôi nhờ Chí, dạy lư ở trường Nguyễn Trăi vẽ giùm cái bảng hiệu Chim Sẻ cho tôi. Ở chỗ ông Bốn, quán tôi có một người
khách sau trở thành bạn tôi; anh Hải Vân, họa
sĩ cho đoàn kịch Kim Cương,
một người
mà ai trong giới nghệ sĩ
đều biết.
Anh có một người vợ nhỏ hơn anh
gần 20 tuổi
là một
ca sĩ. Cũng v́ sự chênh lệch tuổi tác đó mà khi sang Mỹ người
vợ
trẻ
đă
bỏ
anh dù hai người đă có với nhau hai đứa con. Trước khi anh mất, tôi có dịp ghé qua Cali thăm anh. Hôm anh đến
quán tôi, anh đi với nữ ca sĩ Giao
Linh.
Ở
sân nhà ông Bốn không bao lâu, quán tôi phải dời
chỗ
khác v́ vợ ông Bốn không chịu được sự ồn ào của quán nhậu. Tôi dời quán xuống sân nhà chị Kim, cũng trên
đường Tôn Đản thuộc phường 15 ở G̣ Bà Mụ, đối diện xéo phường đội 8, nay là góc đường Vĩnh Hội
và Tôn Đản. Nhằm mùa mưa nên mỗi lần có mưa,
nước mưa ngập
sân, khách nhậu phải ngồi chồm hổm trên ghế. Ba vợ tôi thấy vậy, ông đi kéo lá về lợp mái che cho quán tôi. Lúc này v́ quán quá đông
khách nên tôi dẹp các lớp dạy thêm ở nhà để phụ giúp vợ tôi ở quán. Ban đầu khi c̣n ở nhà bên vợ trong chợ cầu Cống, buổi tối người làm cho tôi lấy xe đẩy
chở
đồ của tôi đẩy hai đứa con tôi ra quán, giăng mùng cho chúng ngủ
trên xe tại chỗ. Khi dẹp quán, hai vợ chồng
tôi mỗi
người nách một đứa về nhà. Tội nghiệp, tuổi thơ của hai đứa con tôi phải sống
trong cực khổ. Sau này, có kha khá tiền tôi thuê nhà ở
trong hẻm cà phê Meilleur Goût và mướn cô Út ( người
bà con của tôi) giữ hai đứa con tôi. Ở quán này, ba vợ của
Trần
Xuân Hải , dạy lư ở trường Nguyễn Trải thường xuống nhậu trước khi ông định cư ở Canada.
Gần nhà ba tôi có quán cà phê Bạch Tuyết,
ông chủ quán cũng là chủ thầu cho mướn xích lô máy. Sau 75, ông không kinh doanh ǵ nữa.
Một
hôm ông xuống quán tôi hỏi tôi có muốn
thuê nhà ông để dời quán về đó không? Nghĩ rằng quán ḿnh thuê
trước sân nhà người ta hoài rất
bất
tiện
trong lúc nắng mưa nên tôi quyết định dời quán về nhà bác Bạch Tuyết ở đường Đỗ Thành Nhơn cho
khang trang, lịch sự
hơn.
Quán Chim Sẻ của tôi cứ dời chỗ hoài như thế nhưng vẫn không mất khách v́ trước khi dời
chỗ
tôi báo trước cho khách biết đồng
thời
dán thông báo trên các trụ điện. Ở chỗ nào, ngày khai trương quán tôi cũng đông
nghẹt
khách. Quán tôi có các món đặc sản như thịt rừng: nai, heo rừng, nhím, trúc, chồn....
và các loài chim: chim sẻ, gà nước, chàng nghịch, ốc
cao, le le... không kể các món nhậu thông dụng: cà ri dê, lươn xào lăn, ḅ
bóp thấu, lẩu cá hú, lẩu lươn...Đặc biệt có hai món quán tôi rất nổi
tiếng
mà không quán nào có bán là: dồi lươn
và trứng mực
chiên bơ. Món dồi lươn
làm rất công phu: cắt
cổ
con lươn, lộn ngược ra để lóc thịt, bầm nhỏ thịt lươn
rồi ướp
gia vị,
xong dồn thịt trở lại bên trong lớp da để
giữ
nguyên h́nh dạng con lươn.
Cuối cùng là đem dồi
lươn chiên. Món này ăn với bánh tráng, rau sống
và mắm
nêm rất
ngon.C̣n món trứng mực là mua bộ phận sinh dục của con mực, lăn bột khô rồi đem
chiên với bơ. Món
này ăn với sauce mayonaise rất béo.
V́ bận kinh doanh quán nhậ