Chương 7- Cuộc đổi đời: 11 năm ở lại Việt Nam sau ngày 30
tháng 4 năm 1975
Ngày 1 tháng 5
năm 1975, một ngày sau khi Chánh
Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam làm chủ Sài Gòn
thì Ủy ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định
kêu gọi các công chức chế độ cũ đến trình diện tại nhiệm sở của mình. Tôi đến
Trung Tâm Giáo Dục Hồng Bàng với tâm trạng hoang mang cũng như các đồng nghiệp khác. Thật giống như hai câu
thơ Kiều:
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo
phận mình ra đâu?
Không thấy các giáo sư của
phái bộ văn hóa Pháp đến
trình diện, thì ra họ là công dân Pháp đâu
có bị ràng buộc bởi nhũng quy định dành cho công chức người
Việt như chúng tôi. Mọi người tập
trung trong phòng giáo sư, có
cả hai anh chị lao công
trong trường
tham dự. Không
khí thật nặng nề. Có một người đàn ông và một người đàn bà lạ mặt mặc đồ bộ đội
ngồi ở bàn chủ tọa. Họ tự giới thiệu là người
của cách mạng đến tiếp
quản trường . Sau một hồi nói về chính sách của Chánh Phủ Cách Mạng, họ phân công cho mọi
người. Chị Bùi Thị Mạnh, giáo sư Triết,
em của bà Bùi Thị Mè, thứ trường trong Chánh Phủ Cách Mạng làm trưởng ban điều hành trường thay anh Lâm Võ Quỳnh , anh này được
giao phụ trách
ban đời
sống (như ban tiếp
liệu), tất cả giáo sư được gọi lại là giáo viên.
Trong hệ thống giáo đục
trước đây của miền Nam thì chỉ có người dạy
tiểu học được
gọi là giáo viên (instituteur), còn những
người
dạy bậc trung học, cao đẳng
và đại
học đều được gọi là giáo sư (professeur). Dĩ nhiên
ai nấy đều cảm
thấy hơi buồn lòng.
Hai cán bộ tiếp quản cho biết ngày hôm nay
là ngày lễ Lao Động, ngày lễ lớn nhứt đối
với hai giai cấp công, nông
nên nhà trường
có tổ chức một cuộc biểu tình và diễu hành (diễn hành) quanh
khu phố . Các
giáo viên của trường phải tham gia để xiễn dương ý
nghĩa của
ngày lễ và đồng thời vận động một
số dân (đa số là
thương, phế binh
VNCH) đang trú
ngụ trong những căn chòi
bên lề đường phía sau trường về quê lao động.
Những ngày sau, chúng tôi đến
trường
làm những việc như nhặt
rác, quét dọn..với áo sơ mi bỏ ngoài
quần, chân mang
dép đối
với nam giáo viên, còn nữ giáo
viên thì quần đen, áo bà ba. Chị Mạnh ngày trước thuộc đợt
sống mới, áo dài màu
hay bông, tay raglan, đi
xe hơi dạy học. Nay thì chị cũng mặc
áo bà ba, quần đen đi xe đạp. Nghe nói chồng chị là bác sĩ Trâm được Ủy Ban Quân Quản cử làm giám đốc
bệnh viện Nhi Đồng.
Chị Mạnh cho tất cả giáo viên
làm một bản khai lý lịch. Khi đọc bản
khai của tôi chị nói: "ngạch
trật của anh là giáo sư trung học đệ nhị cấp thượng hạng
hạng tư à? Sao
anh dạy học có mười
năm mà lên nhanh vậy. Tôi mới có hạng ba". Tôi
nhủ thầm: "Chị ơi, nay đổi đời rồi,
bây giờ chị là xếp của tôi".
Ngày 23 tháng 6
năm 1975, các sĩ
quan VNCH ở Sài Gòn từ thiếu úy đến đại úy phải trình diện đi học tập
cải tạo và được hướng dẫn
bằng thông báo trên đài
phát thanh cũng như các
loa ở phường là phải mang giấy bút, quần áo, vật dụng cá nhân, lương thực đủ dùng trong 10
ngày. Các sĩ quan cấp
tá và tướng được hướng dẫn
mang đồ dùng
cho một tháng. Ai
nấy tin tưởng
rằng mình sẽ đi học tập
một thời gian ngắn rồi được trả về gia đình vì trước
dó các hạ sĩ quan và binh lính chỉ học tập trung cải tạo có 3 ngày tại chỗ,
Buổi chiều hôm đó vợ tôi chở tôi bằng xe Honda vào
trình diện ở trường
Pétrus Ký với những thứ lỉnh kỉnh dự trù cho 10 ngày. Khi từ giả chúng tôi hẹn gặp lại trong hơn một tuần
nửa. Những người đi trình diện học tập được cho vào các lớp học chọn một chỗ để nghỉ ngơi. Lát sau có xe của
nhà hàng Đồng
Khánh đến đem cơm chiều cho chúng tôi. Ai nấy đều
hân hoan vì đi học
tập mà được ăn nhà hàng và tin rằng sáng mai sẽ bắt đầu
học tập tại đây. Đêm hôm đó trời mưa tầm
tả như báo
hiệu một ngày mai vô định.
Hai ngày ở tại trường Pétrus Ký tôi không
thấy gì thay đổi : chúng tôi vẫn ngồi tụ tập tán gẫu và chờ đợi giờ cơm. Có người
bạo dạn đến hỏi
thăm các
anh bộ đôi canh gác trong trường
thì các anh ấy chỉ lắc đầu trả lời là không biết gì.
Đêm
thứ ba, chúng
tôi nghe tiếng xe hơi rầm rập ngoài cổng. Một lát sau các anh bộ đội
vào từng phòng gọi tên từng người rồi
dẫn ra xe molotova phủ bạt bít bùng. Đoàn xe di
chuyển qua các đường trong thành phố và đi về hướng nào chúng tôi không biết. Không ai dám dở bạt xem mìmh bị chở đi đâu
vì có hai anh bộ đội mang AK ngồi đàng sau. Độ hai tiếng sau, có anh ngồi cạnh tôi bạo dạn dở hé tấm bạt lên, tôi nhìn
qua trông thấy trời đang tờ mờ sáng và xe đang
chạy ngang một sạp báo có hai cô gái mặc đồ bộ đang nói
chuyện với nhau. Anh này nói khẻ với tôi: Tây Ninh. Thật
vậy chúng tôi được
chở tới phi trường
Trảng Lớn, Tây Ninh.
Rồi qua hai năm
ba tháng tôi trải qua nhiều trại cải tạo: Trảng Lớn, Long Khánh,
Ka Tum và cuối cùng là Hàm
Tân trước
khi được
thả ra.
Đầu
tháng 9 năm 1977, trong trại
học tập chúng tôi có
một số sĩ quan biệt phái gốc giáo chức được thả ra trong đó
có anh Nghiêm Dũng cùng ở quận 4 với tôi, anh Vân người
nấu ăn chung với
tôi trong trại . Tôi nghe
nói giáo chức được thả về sớm và được
cho dạy học lại vì các trường học
thiếu thầy giáo. Trước đó cũng có
một số bác sĩ được thả về làm việc trong các bệnh viện. Vì vậy tôi hy vọng mình cũng sắp
sửa được
thả ra.
Vài tuần sau, tôi và một số người
khác được
thả. Chúng
tôi ra khỏi cổng trại và băng qua quốc lộ vào một xóm nhà đối diện
với trại . Chúng
tôi vào một quán ăn làm một chầu no bụng
và khoái khẩu để bù lại những ngày thiếu thốn trong trại. Xong, chúng tôi đón xe đò về Sài Gòn. Những người khách trên xe nhận ra ngay chúng tôi là những
người đi học tập
cải tạo vừa được
thả về. Tôi xuống xe trên đường Trần Quốc Toản và gọi xe xích lô
máy về nhà ở quận 4.
Tôi về đến
nhà trong sự vui mừng bất ngờ của gia đình, nhứt là vợ tôi. Nàng đã
dẫn con tôi đi thăm nuôi
và gặp tôi ở trại Katum và trại Hàm Tân, nhưng lần
này nàng mới tin rằng lần gặp gở này sẽ không còn phải bịn rịn chia tay nữa. Và thằng con chưa đầy hai tuổi của tôi sẽ biết rõ người cha của nó là ai không như
trong những lần đi thăm nuôi, miệng nó kêu ba ơi nhưng không
biết ba nó là ai
trong số những người
học tập cải tạo chung quanh
nó.
Công việc đầu
tiên tôi phải làm là đi trình diện công an khu
vực ở khu phố tôi. Sau đó,
quận có một buổi tâp trung các
người
vừa được
thả ra từ trại cải tạo để nói chuyện tại rạp Nam Tiến. Chúng
tôi rất lạc quan khi nghe cán bộ thuyết trình viên nhấn mạnh trong bài nói chuyện:
"chúng tôi là những người chỉ biết đi chiến đấu không có trình độ văn hóa, kỷ thuật, khoa học như các anh vì vậy chính những người
có trình độ như các anh sẽ là những người
cần thiết để xây dựng đất
nước sau này".
Vài ngày sau,
thành phố tổ chức một lớp học tập chính trị cho các giáo chức
là sĩ quan biệt
phái tại trường Taberd, đường Gia Long. Giám đốc Sở Giáo
Dục Thành Phố là Phạm Chánh Trực, sinh viên trường Đại Học
Khoa Học Sài Gòn,
thoát ly theo Mặt Trận Giải Phóng năm 1968. Anh là người chủ trì
khóa học. Các học viên được
chia thành từng tổ. Tôi ở chung tổ với anh Phan Bửu Giá, trước
75 là hiệu trưởng trung học Giồng Trôm, Bến Tre. Sau những bài giảng chính trị do cán bộ Sở Giáo dục phụ trách, mỗi tổ chúng tôi
thảo luận. Cuối cùng , mỗi người
trong tổ làm bài
thu họach và đọc lên cho tất cả người trong tổ nghe. Anh cán bộ phụ trách ngày thu hoạch
lắng tai nghe tôi đọc
bài thu hoạch và nói
tôi đưa cho anh bài
thu hoạch của tôi. Phan Bữu Giá nói nhỏ với tôi:"Bài
thu hoạch của mày viết hay quá, cán
bộ chịu rồi đó."
Mãn khóa học chính trị, tôi về phòng Giáo Dục Quận 4 thì anh Hồ Hữu Tâm, bạn của tôi từ trước 75, đang làm cán bộ ở đó dẫn tôi đến
trường
Nguyễn Trãi giới thiệu tôi với anh Hải, hiệu trưởng ở đó. Thế là tôi trở thành
"giáo viên" trường
nguyễn Trãi kể từ đó.
Tôi về dạy trường Nguyễn Trãi từ niên khóa
1977-1978, lúc đó anh Hải là hiệu trưởng, anh là Hứa Doanh Trung là hiệu
phó học vụ, anh Phạm
Văn Mạnh là hiệu phó lao động,
anh Xương cũng là
hiệu phó nhưng phụ trách công tác gì tôi đã quên. Anh Mạnh thấy tôi còn trẻ nên mời tôi vào ban lao động
của anh. Thế là ngoài
giờ dạy học , thỉnh thoảng tôi dẫn học sinh đi làm lao động
trong sân trường:
lót gạch những chỗ ngập nước,
lượm rác, quét dọn...những việc trước
1975 là của lao công trường. Lao công trường là chú Bảy và chị Bé, bây
giờ được gọi là bảo vệ. Trường
có ban đời
sống do một giáo viên phụ trách để lo
mua nhu yếu phẩm: thịt, đường, bột ngọt,thuốc lá, vải
vóc, ...về phân phối cho giáo viên. Đến
ngày phân phối nhu yếu phẩm thì trường trở thành cái chợ để mọi người đến mua hàng. Việc này chưa bao giờ có
trong trường
học ở miền nam trước
năm 1975. Ngày đó lương giáo
sư dư dã, ai muốn mua sắm gì thì cứ ra các cửa hàng bên
ngoài. Bây giờ lương giáo viên khi bắt đầu
vào biên chế chỉ có 60 đồng
nếu ra ngoài mua hàng thì chẳng đủ dùng cho bản thân, nói chi đến
gia đình. Trước khi đi học tập
vợ tôi có bầu đứa con trai, khi về thì nàng sinh thêm cho tôi một đứa con gái nữa. Cả nhà 4 người sống
với số lương đó thật là chật vật.
Còn nhớ một đêm tôi đang dạy
học lớp bổ túc văn hóa ở trường
Nguyễn Trãi thì thằng em vợ chạy vào trường báo
tin vợ tôi đã chuyển bụng, người
nhà đã đưa nàng vô nhà bảo sanh Bích Liên ở đường Bến Vân Đồn
, hẻm Chủ Phước
gần Cầu Chông. Tôi
lật đật
cho học sinh nghỉ học và chay lên
nhà bảo sanh. Đang ngồi chờ bên ngoài không bao lâu thì cô mụ bước
ra cho biết vợ tôi đã sanh. Nhìn
thấy tôi đang hồi họp
chờ đợi để biết vợ tôi sanh
con trai hay con gái, cô mụ cười nói"ông đừng lo nữa, bà ấy sanh con
gái". Thật tình đang mong muốn có một đứa
con gái cho cân bằng vì nếu có thêm một thằng con trai nữa thì chúng quậy chịu sao nỗi. Sáng hôm sau tôi ra chợ Hãng
Phân gần nhà bảo sanh Bích Liên để mua
một cái núm vú cao su cho con gái tôi lại nhằm gian hàng của một em học sinh nữ của trường. Em
hỏi tôi" thầy mua núm vú
làm gì?" làm tôi ngượng
chín cả người.
Đầu
năm 1979 , sau khi bộ đội Việt
Nam đã chiếm đóng toàn bộ Kampuchia (Cao Miên) đuổi
quân Khmer Đỏ vào
rừng, Một buổi sáng, tất cả giáo viên chúng tôi được
triệu tập vào trường
Nguyễn Thị Minh Khai (nữ trung học Gia Long cũ) để học tập chính trị. Chúng tôi ngỡ ngàng
khi chủ đề khóa học này là để chống "bọn bành trướng" Bắc Kinh. Từ trước tôi biết chính Liên Xô và Trung Quốc đã giúp đỡ cho
miền Bắc trong chiến tranh Việt Nam đến
thắng lợi năm 1975. Bây giờ tại sao lại có việc chống Trung Quốc?
Ngày 17 tháng 2
năm 1979, Trung Quốc xua quân đánh vào các tỉnh phía bắc Việt Nam và Đặng Tiểu Bình tuyên bố là cho Việt Nam một bài học. Đó là bài học tại sao Việt Nam dám xâm chiếm Kampuchia.Gần một tháng sau
quân Trung Quốc mới rút về nước sau khi tàn phá một số thành phố, thị trấn gần biên giới và sát hại nhiều người
dân Việt Nam vô tội. Thương vong cả hai
phía lên tới vài chục ngàn người.
Giáo viên và học sinh trường
Nguyễn Trãi được lệnh xuống Nhà Bè đào đất để làm những ổ phòng thủ. Anh Mạnh và tôi trong
ban lao động
phải "động viên" các em tích cực đào đất. Người ta đề phòng chiến hạm Trung Quốc theo dòng LòngTào tiến
vào Sài Gòn. Chuyện này không bao
giờ xảy ra, duy thầy trò chúng tôi
khi đi thì
quần áo sạch sẽ, khi về thì quần áo lấm lem bùn sình.
Về sau, anh Hải đổi đi nơi khác, chị Mai sau khi nghỉ hộ sản về thay thế làm hiệu trưởng,
anh Xương vì
là người
gốc Hoa nên không còn làm hiệu
phó và chị Lịch về thay. Thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình tôi, chị Mai cho vợ tôi vào trường
làm ở căn tin như một nhân viên ngoài biên
chế để kiếm thêm thu nhập. Tôi
cũng bắt đầu mở các
lớp ở nhà dạy thêm từ luyên thi
vào lớp 10, tốt nghiệp phổ thông cho đến
luyện thi vào đại học. Tôi
mời thêm anh Phan Văn Phùng
dạy toán, anh Tôn Thất Chứng dạy hóa, Trần Xuân Hải dạy lý, Nghiêm Dũng dạy
văn phụ giúp tôi. Anh công an khu vực đến
nhà tôi hỏi tôi dạy học có giấy phép không, tôi trả lời là tôi chỉ "phụ đạo"
(dạy kèm) cho các
em học yếu. Như vậy
anh ta không có lý do gì để làm
khó dễ tôi.
Một điều
lý thú ở trường Nguyễn Trãi là tôi gặp lại rất nhiều bạn đồng nghiệp là đồng môn toán
của tôi : Huỳnh Hoa, sau làm
hiệu trưởng; Nguyễn Thanh Bá, hiện ở quận 7, Sài Gòn;
Nguyễn Văn Hồng, đã mất; Trương Đức Hòa, nay ở hẻm Chủ Phước,
Bến Vân Đồn,
quận 4: Bùi Quốc Vượng nay ở hải ngoại. Cũng tại
trường
Nguyễn Trãi tôi gặp lại một số đồng nghiệp quen biết hay từng dạy chung ở một trường khác trước dó như anh Hùynh Thành Tâm tức nhà văn Huỳnh Phan Anh, em rễ của bạn tôi, nay ở Mỹ: chị Nguyễn Mộng Thúy, dạy chung với tôi tại Trà Vinh hiện cũng ở Mỹ, tôi có gặp chị trong dịp dự Đại
Hội Nguyễn Trãi ở nam Cali năm 2011; anh Đoàn
Viết Biên, từng dạy chung với tôi ở Trà Vinh
và Biên Hòa; Mai Khắc Bích, dạy chung ở một số trường tư
Sài Gòn trước
năm 1975, nay đã mất.
Đa
số giáo viên dạy cùng thời với tôi ở trường
Nguyễn Trãi đều được đào tạo trong miền Nam trừ một số ít gọi là giáo viên chi viện đến từ miền Bắc như chị Mai, chị Lịch, cô Thục, anh Bảy...Những người
kỳ cựu xuất thân từ đại học
sư phạm Sài Gòn trước năm
1975 ngoài những người tôi quen biết kể trên, tôi
còn nhớ có anh
Trung, anh Mạnh, anh Can,
anh Chung, anh Bích, anh Cẩm, anh Chứng, anh Phùng, anh Khoan, anh Ung Thành Hải, anh Phạm Gia Tuyên,
anh Vũ Tuyên, anh
Hiệu, anh Lê Triều Vinh, anh Ngạc, anh Trần Thuần, anh Đoàn, anh Tám....và các chi như
chị Bích Hà, tôi cũng
gặp ở Mỹ năm 2011, chị Diệu Tố, chị Thủy (vợ anh Bá), chị Vinh, chị Minh Châu...Còn nhân viên văn
phòng tôi còn nhớ chị Cúc làm ở thư viện, chị Sen thư ký;
tôi cũng gặp
hai chị này ở Cali, chị Lệ, anh Châu nay đã
mất. Tôi cũng nhớ cô
Thắng dạy nữ công; anh
Vinh, anh Phong và cô Phượng
dạy thể dục; anh Vinh ở Mỹ nay đã mất. Ngoài ra về sau có một số thầy cô giáo trẻ về trường
như Trần
Xuân Hải, Chí, Quân,
cô Lan...
Năm 1979, sau việc Trung Quốc phát động
chiến tranh chống Việt Nam, chính
quyền ban lệnh tổng động viên thanh niên từ 18 đến
35. Tôi và anh Ngạc dạy sử địa là hai thầy giáo thuộc "đợt sống
cũ" nhưng còn trẻ phải ra đăng ký nghĩa vụ ở trường
Dân Cường.
Dĩ nhiên chúng tôi không được
"trúng tuyển" vì là sĩ quan chế độ cũ.
Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, nhà
nước chủ trương hợp tác xã hóa các doanh
nghiệp tư nhân. Ba tôi dẹp bỏ bảng hiệu tiệm may Huỳnh Tân của mình, kết hợp tiệm may Phước
Lợi ở ngoài đường Tôn Đản làm hợp tác xã may mặc. Từ một ông chủ ba tôi trở thành như một người
làm công, sáng tới nhà chú Phước Lợi
may cắt, trưa về nhà ăn cơm rồi trở ra tiếp tục. Ba tôi thấy mất thì giờ mà thu nhập chẳng bao nhiêu
nên một thời gian sau ba tôi rút khỏi
hợp tác xã về nhà mở tiệm trở lại nhưng không đề bảng hiệu nữa. Các tiệm vàng KIm Hoa,
Kim Phát, Hữu Tín và Kim
Trang đóng cửa vì không được
phép kinh doanh. Chú Hữu Tín bày bán
thuốc rê trước nhà.
Chị hiệu trưởng Mai lấy lý do vợ tôi không
phải là công nhân
viên của trường nên lấy căn tin lại
cho chị Bé phụ trách. Vợ tôi đặt một
cái bàn trước
cửa nhà ba tôi để bán
sinh tố. Lúc đó vợ chồng tôi ở nhà vợ tôi trong chợ Cầu Cống. Con gái tôi
mới được
bảy tám tháng tuổi nên vợ tôi để ở nhà nhờ một đứa
em vợ trông coi
giùm. Buổi tối, nếu không có giờ dạy bổ túc văn hóa,
tôi ra quán sinh tố phụ vợ tôi. Một đêm, khi về nhà và lên lầu chúng tôi hốt hoảng khi bắt gặp con gái
tôi đang bò
từ cửa phòng ra gần tới cầu thang. Vợ tôi bồng con tôi lên và khóc ngất.
Chỉ một chút nữa thì con tôi sẽ rơi xuống
cầu thang. Thì ra dì nó dỗ nó
ngủ trên giường xong thì yên chí bỏ đi thâu
hụi. Con tôi thức giấc lăn té
xuống sàn và bò ra
cửa. May là chúng tôi về kịp. Vợ tôi quyết định
không bỏ con đi bán sinh tố nữa. Vợ tôi bày
bàn ghế trước cửa
nhà bán bia hơi. Chiều
nào vậy, sau
khi đi dạy
về tôi và Trần Xuân Hải cũng làm
vài ly ở quán bia mini
trước
cửa nhà tôi.
Ít lâu sau mẹ vợ tôi nảy ra sáng kiến mở một quán nhậu. Chúng tôi đồng
ý vì má vợ tôi nấu ăn rất
ngon. Tôi mướn
sân nhà cô Gái, trước
75 cha mẹ cô mở vựa bán cây ở đường
Tôn Đản,
khu vực phường 14. Buổi sáng vợ tôi đi chợ Bến Thành mua các thứ cần thiết về cho mẹ vợ tôi chuẩn bị. Buổi chiều, quán mở cửa, mẹ vợ tôi là đầu
bếp chính, vợ tôi phụ bếp còn tôi làm
người
chạy bàn và tính
tiền. Dần dần quán
tôi đông khách, tôi
phải mướn thêm người phụ. Đối diện
quán nhậu của tôi là quán nhậu của ông Lâm Tồn, ông ta là một thầy đờn có tiếng trong giới cải lương. Sau này
má vợ tôi đi buôn hàng ở tỉnh nên vợ tôi trở thành đầu
bếp chính của quán.
Gần Tết năm đó, cô Gái đòi tăng tiền
mướn chỗ và
không cho chúng tôi bán trong những
ngày Tết. Do đó, sau Tết tôi mướn sân nhà của ông Bốn đối diện
phường đội phường
10 để mở quán. Ông Bốn
là người
Bắc di cư, có
một đời
vợ trước
ngoài Bắc, vào Nam ông
lấy một người vợ trong
này và có một con gái. Tại chỗ mới này, khách quá đông
nên chúng tôi phải mướn thêm vài người để phụ việc trong số đó có bà Lũy, mà khách quen trong vùng thường
gọi là Mai Lệ Huyền. Ngày nay, bà ấy
mắc bệnh tâm thần, năm ngủ lang thang
ngoài đường;
lần nào về Việt Nam vợ tôi thường cho tiền bà mặc dù bà ấy không còn nhận ra chúng tôi
nữa. Ngoài ra chúng tôi còn mướn
chị em con
Gái Xẩm và thằng Thung phụ việc cho chúng tôi. Khi mẹ con
Gái Xẩm gả nó lấy chồng, nghe nói nó không cho chồng
nó ngủ chung mà đạp thằng
này xuống giường. Còn thằng Thung về sau thành
bê đê.
Quán tôi có một món đặc
sản: chim sẻ rô
ti, ăn rất
dòn và béo. Tôi nghĩ ra mình
nên đặt
tên quán là Chim Sẻ. Đúng là một cái tên định mệnh:
quán tôi dời đổi từ chỗ này đến
chỗ khác như con chim sẻ nay đậu cành này, mai đậu cành kia. Từ đường
Tôn Đản đến đường Đỗ Thanh Nhơn; từ quận 4 sang quận 1 rồi quận 3, trở về quận 1 cuối cùng trở lại quận 4; từ Sài Gòn,
Việt Nam sang
Montréal, Canada. Ngay khi vượt
biên, vừa đặt chân lên đảo Pulau Bidong tôi nghe ai đó gọi to: Chim Sẻ.
Tôi nhờ Chí, dạy lý ở trường
Nguyễn Trãi vẽ giùm cái bảng hiệu Chim Sẻ cho tôi. Ở chỗ ông Bốn, quán tôi có một người khách sau trở thành bạn tôi; anh Hải Vân, họa sĩ cho đoàn kịch
Kim Cương, một
người
mà ai trong giới nghệ sĩ đều
biết. Anh có
một người
vợ nhỏ hơn anh gần 20 tuổi là một ca sĩ. Cũng vì
sự chênh lệch tuổi tác đó mà khi sang Mỹ người
vợ trẻ đã bỏ anh dù
hai người đã có với nhau
hai đứa
con. Trước
khi anh mất, tôi có dịp ghé qua Cali thăm anh. Hôm anh đến
quán tôi, anh đi với
nữ ca sĩ Giao Linh.
Ở sân
nhà ông Bốn không bao
lâu, quán tôi phải dời chỗ khác vì vợ ông Bốn không chịu được
sự ồn ào của quán nhậu. Tôi dời quán xuống sân nhà chị Kim, cũng trên đường Tôn Đản thuộc phường
15 ở Gò Bà Mụ, đối
diện xéo phường đội 8, nay là góc đường Vĩnh Hội và Tôn Đản. Nhằm mùa mưa nên
mỗi lần có mưa, nước mưa ngập sân, khách nhậu phải ngồi chồm hổm trên ghế. Ba vợ tôi thấy vậy, ông đi kéo
lá về lợp mái che cho quán tôi. Lúc này vì quán quá đông khách nên tôi dẹp
các lớp dạy thêm ở nhà để phụ giúp vợ tôi ở quán. Ban đầu
khi còn ở nhà bên vợ trong chợ cầu Cống, buổi tối người làm cho tôi lấy xe đẩy
chở đồ của tôi đẩy
hai đứa
con tôi ra quán, giăng mùng
cho chúng ngủ trên xe tại chỗ. Khi dẹp quán, hai vợ chồng tôi mỗi người nách một đứa
về nhà. Tội nghiệp, tuổi thơ của hai đứa con tôi phải sống trong cực khổ. Sau này, có
kha khá tiền tôi thuê
nhà ở trong hẻm cà phê Meilleur Goût và mướn
cô Út ( người bà
con của tôi) giữ hai đứa
con tôi. Ở quán này,
ba vợ của Trần Xuân Hải , dạy lý ở trường
Nguyễn Trải thường
xuống nhậu trước
khi ông định
cư ở Canada.
Gần nhà ba tôi có quán cà phê Bạch
Tuyết, ông chủ quán cũng là
chủ thầu cho mướn
xích lô máy. Sau 75, ông không kinh doanh gì nữa. Một hôm ông xuống quán tôi hỏi tôi có muốn thuê nhà ông để dời quán về đó không? Nghĩ rằng
quán mình thuê trước
sân nhà người
ta hoài rất bất tiện trong lúc nắng mưa nên
tôi quyết định dời
quán về nhà bác Bạch Tuyết ở đường Đỗ Thành Nhơn cho khang trang, lịch sự hơn.
Quán Chim Sẻ của tôi cứ dời chỗ hoài như thế nhưng vẫn không mất khách vì trước
khi dời chỗ tôi báo trước
cho khách biết đồng thời dán thông báo trên các trụ điện. Ở chỗ nào, ngày
khai trương quán
tôi cũng đông
nghẹt khách. Quán
tôi có các món đặc
sản như thịt
rừng: nai, heo rừng, nhím, trúc,
chồn.... và các
loài chim: chim sẻ, gà nước, chàng nghịch, ốc cao, le le...
không kể các món
nhậu thông dụng: cà ri dê, lươn xào
lăn, bò bóp thấu, lẩu cá hú, lẩu lươn...Đặc biệt có hai món quán tôi rất
nổi tiếng mà không
quán nào có bán là: dồi lươn và trứng
mực chiên bơ. Món
dồi lươn làm
rất công phu: cắt cổ con lươn, lộn
ngược
ra để lóc
thịt, bầm nhỏ thịt lươn rồi ướp gia vị, xong dồn thịt trở lại bên trong lớp da để giữ nguyên hình dạng
con lươn. Cuối
cùng là đem dồi
lươn chiên. Món này ăn với bánh tráng, rau sống và mắm nêm rất ngon.Còn món trứng mực là mua bộ phận sinh dục của con mực, lăn bột
khô rồi đem chiên với bơ. Món này ăn với
sauce mayonaise rất béo.
Vì bận kinh doanh quán nhậu
nên tôi xin với chi Mai, hiệu trưởng
và anh Trung , hiệu phó xếp tôi dạy các lớp không thi và vào buổi
chiều. Thông cảm hoàn cảnh khó khăn lúc đó của giáo viên nên ban giám hiệu
chấp thuận yêu cầu của tôi. Mỗi buổi sáng tôi và vợ tôi đi chợ Bến Thành, đến
các chỗ mối bán hàng của mình để dặn hàng. Xong, chúng tôi lấy
hàng chở về bằng xích
lô đạp. Còn
thịt rừng, chúng tôi lấy mối ở các quán
thịt rừng đường
Phạm Viết Chánh, còn chim ở chợ chim đường
Phạm Hồng Thái. Tôi về nhà
chuẩn bị bài vỡ để chiều đi dạy. Vợ tôi về quán để cùng các người làm chuẩn bị các
món ăn để tối bán.
Nhờ quán đông khách nên
chúng tôi sống dễ thở hơn trước. Buổi trưa khi đã
chuẩn bị xong các món ăn,
vợ tôi cho mở cửa quán. Lúc đó
quán chỉ có khách
lai rai. Buổi tối, quán mới bắt đầu đông khách vì sau giờ làm
việc, mọi người
mới nghĩ đến
việc nhậu nhẹt, ăn uống. Từ trường
về, tôi ra quán phụ với vợ tôi trong
việc buôn bán. Có
thể nói bây
giờ vợ tôi là người lao động chính trong gia đình vì tiền thu nhập của quán ăn nhiều gấp
mấy lần số lương dạy
học khiêm nhường
của tôi.
Nhưng số tôi vẫn còn lận đận nên quán tôi đang làm ăn tốt đẹp thì thành phố mở chiến dịch gọi là "năm quản",
nay tôi không nhó rõ quản lý những gì nhưng chắc
chắn có một "quản" nhằm những ngành buôn
bán nhỏ như quán ăn của
tôi. Mỗi ngày hai vợ chồng tôi bị triệu tập lên phường
13 "làm việc" suốt ngày chỉ trừ buổi trưa được cho về khoảng 1 tiếng để ăn cơm rồi trở lại phường" làm việc" đến
chiều. Mục đích họ ép buộc chúng tôi chấp nhận mức thuế ban quản lý thị trường ấn định
cho quán của tôi. Nhận thấy mức thuế không hợp lý, nên tôi từ chối và đóng cửa quán.
Người ta đã triệt con đường sống của gia đình tôi, không còn cách nào khác tôi đành chọn việc ra đi. Nhưng tôi
lại thất bại phải quay về và còn bị mất việc ở trường
Nguyễn
Trãi Khi tôi đóng cửa quán thì bác Bạch Tuyết chủ nhà mướn lai toàn bộ những người phụ việc của quán tôi kể cả người phụ bếp dể mở lại quán mà bác
là chủ và lấy hết khách cũ của tôi. Mỗi lần đi ngang qua quán cũ của mình nay bị người
khác khai thác tôi không tránh khỏi
chua xót.
Tôi nghỉ cách khác để kiếm sống. Một người
quen giới thiệu tôi với bác Mạnh một người miền
Nam tập kết ra Bắc và trở về từng làm giám đốc
hãng Vissan và là đại
biểu hội đồng
nhân dân ở thành phố, nay đã nghỉ hưu. Ông
và gia đình gồm vợ người Bắc
và hai con được
cấp căn nhà
của một gia đình tư sản đã vượt
biên ở đường Phạm Ngũ Lão đối diện
rap xi nê Quốc Tế (rạp Thanh Bình cũ} gần chợ Thái
Bình, quận 1. Nhà rộng và vợ chồng bác không biết làm gì
nên đồng
ý cho tôi thuê để mở cửa hàng ăn uống của phường.
Bác Mạnh nhờ ông Sứ, phó chủ nhiệm hơp tác
xã phường
Phạm Ngũ Lão làm hợp đồng 6 tháng với tôi. Ngày khai trương,
cũng như ở các chỗ bán trước,
quán tôi đông nghẹt khách. Tại đây tôi tạo được số khách mới ngoài những người
khách cũ ở quận 4 như 3
người
trong ban quản lý rạp Quốc Tế: giám đốc,
phó giám đốc
và bảo vệ cũng
như chị giám đốc rạp
Vinh Quang ( Casino Sài Gòn cũ), bạn
gái của anh
giám đốc
rạp Quốc Tế; anh Tám nhà kế bên quán
tôi, em của ca sĩ Duy Mỹ trong ban tam ca
Sao Băng trước
năm 75: con trai nhạc sĩ Khánh Băng, nhà
trong hẻm gần quán tôi; Nguyễn Văn On, em rể của Huỳnh Đạt Bửu,
bạn đồng
nghiệp của tôi ở Trà Vinh,
tổ trưởng
tổ toán của sở giáo dục thành phố...
Trong khi quán
của tôi đang hoạt động thuận lơi, một
hôm bác Mạnh đưa cho coi tôi một lá thơ rơi ném
vào nhà bác ban đêm. Nội dung cho bác Mạnh biết tôi là một sĩ quan "ngụy" từng bị đi học tập
cải tạo và quán tôi
không được
phép bán ở quận 4. Bác Mạnh nói với tôi, dù tôi là một sĩ quan cải tạo nhưng đã
"học tập tốt"
nên được
thả về và đã được trả quyền công dân,
ngoài ra lúc trước
tôi mở quán tư nhân ở quận 4 nhưng nay ở quận 1, tôi đã hợp tác với hợp tác xã phường nên
không có vấn đề gì. Về sau, có một người nói cho tôi biết chính là con dâu của
bác Bạch Tuyết rơi thơ tố cáo
tôi. Tôi thấy ngao ngán cho
tình đời. Bác
Bạch Tuyết, trong tiệc cưới
của tôi chỉ chưa đầy một tháng trước
ngày miền Nam mất, là đại
diện bên gia đình tôi và bác đã
cho gia đình tôi mượn xe hơi để đi rước dâu. Nay vì việc cạnh tranh buôn
bán mà gia đình bác hành sử như vậy đối với
tôi.
Mới vừa mất tất cả trong một chuyến ra đi thất
bại, tôi không thuê nhiều
người
giúp việc cho quán tôi,
ngoại trừ cậu Tư tôi và Chi, cháu gái tôi. Cậu
Tư tôi lo vấn đề bia. Mỗi sáng ông đi ra cục đường sắt lãnh bia và chở về quán bằng xe xích lô.Ở quán ông phụ trách phục vụ bia cho
khách. Cháu tôi thì phụ bếp và rửa chén bát. Tôi
chạy bàn và tính
tiền.
Nhưng số tôi còn lận đận. Ông
Sứ nói với bác Mạnh gái hết hợp đồng
hãy lấy nhà lại cho cháu ông khai thác bán lẩu
dê. Thế là chỉ hoạt động có 6 tháng ở đường
Phạm Ngũ Lão, tôi phải tìm chỗ khác mở quán.
Tôi được một người
bạn trước
75 cùng dạy
trường
tư cho hay ông Thắng, thư ký
trường
Thượng
Hiền
trước
kia nay làm chủ tịch ủy
ban nhân dân phường
9, quận
3 có thể giúp
tôi mở quán ở phường
9 được
vì ở đó chưa có
cửa hàng ăn uống.
Trước
75, tôi có mở lớp luyện
thi Tú Tài ở trường Thượng Hiền và ông Thắng
giúp tôi về việc ghi danh và thu học
phí của
học sinh.Tôi đến
gặp ôngThắng
và được
ông giới
thiệu
với hai ông chủ nhiệm và phó chủ nhiệm hợp
tác xã phường
9 để tôi
ký hợp đồng khai thác một cửa
hàng ăn uống.
"Mặt bằng"
của cửa
hàng ở góc đường Võ Văn Tần (Trần Quý Cáp cũ) và đường rầy xe lửa,
nguyên là nhà của
một gia đình đã vượt
biên nay được
giao cho phường
quản
lý và phường
giao cho hợp
tác xã phường
kinh doanh. Ở đây điều
kiện
hợp tác giữa
tôi và hợp
tác xã phường
chặt
chẻ hơn bên phường
Phạm
Ngũ Lão,
quận
1. Hợp
tác xã cử một người
xuống
ngồi
tại cửa
hàng suốt
ngày làm kế toán. Hợp tác xã lấy
phần
trăm trong thu nhập
của chúng tôi. Đây
cũng là một
hình thức
cho thuê nhà với
giá linh động theo thu
nhập
của quán.
Ông chủ nhiệm
hợp tác xã ở phường 9 là một người
cao lớn
và gốc
Hoa, nghe nói trước kia ông
ta bán thịt
heo trong chợ Vườn Chuối, đường
Phan Đình
Phùng (nay là đường
Nguyễn Đình Chiểu). Ông
ta có vẻ dễ chịu
hơn ông phó chủ nhiệm. Ông
sau này thường đến cửa hàng phê bình hay cho ý kiến
này nọ. Chính
ông bắt
cửa hàng tôi phải
bán thêm món phở để "phục vụ"
người
dân ngoài những
món nhậu. Bà
xã tôi phải
luyện
thêm nghề nấu phở.
Cậu
Tư tôi vẫn
giúp cho tôi "khâu" bia. Mối
sáng, ông cùng một
nhân viên của
hợp tác xã đạp xe ba
gác đi lấy
bia hơi ở cục đường
sắt. Tôi thuê thêm một đứa em họ con người
chú ở Bình
Dương và một đứa
cháu họ ở Biên Hòa xuống
phụ giúp. Sau
này quán đông
khách tôi còn thuê thêm hai đứa
con gái ở quận 4 sang giúp việc.
Ở đây, khác ở nhưng nơi trước, trọn "mặt
bằng" là của
quán không còn phải
tá túc trong nhà người
ta nên quán tôi hoạt động thoải mái hơn. Địa điểm quán tôi cũng thuận tiện cho việc
lui tới
cho khách hàng ở các
nơi trong thành phố. Vì vậy
các bạn
cũ trong giới dạy học
và những
người
quen biết đến quán tôi thường xuyên hơn khi quán tôi ở quận
4 hay ở dường Phạm Ngũ Lão
quận
1.
Nhưng,
tôi không thể làm
vừa lòng tất
cả mọi
người được, dù ông chủ tịch
phường
là người
quen biết
cũ nhưng còn bà bí thư phường và ông phó chủ nhiệm
hợp tác xã , hai người
này có vẻ không
hài lòng trong việc
hợp tác"hai bên cùng có lợi"
này nên cuối
năm 1984 tôi được tin hợp tác xã phường
9 sẽ không
tái ký hợp đồng với tôi. Lý do họ đưa ra là cần mặt
bằng để mở cửa
hàng bách hóa "phục
vụ" nhân dân phường
9 thiết
thực
hơn. Đành vậy thôi, tôi lo kiếm
một chỗ bán
khác sau những
ngày Tết.
Một
người
quen giới
thiệu
tôi với
anh chủ nhiệm hợp
tác xã tiêu thụ phường 20, quận 1 tức
là khu vực
của chợ Cầu Ông Lãnh và Cầu
Muối. Khu
này có rất
nhiều
người
gốc Hoa và anh chủ nhiệm này cũng là
người
gốc Hoa. Tôi đến
văn phòng hợp
tác xã ở đường Bến Chương Dương
để ký hợp đồng. "Mặt bằng"
của cửa
hàng ăn uống
phường
20, quận
1 là tiệm
mì của
một anh gốc
Hoa trên đường
Cô Giang. Phần
lớn gia đình
anh đã
ra nước
ngoài, chỉ còn
một số ít
người ở lại
và xe mì của
anh đã
vào hợp
tác xã của
phường.
Nhưng phường
muốn
khai thác việc
kinh doanh mặt
bằng nầy
triệt để hơn nên hợp đồng với tôi để làm
cửa hàng ăn uống. Anh
chủ nhá
bán mì một
bên, tôi bán đồ nhậu một
bên.
Tôi
mở quán nhậu
nên có hai thứ cần thiết
, ngoài các món ăn, là
rượu và bia. Ban đầu tự tôi đi tìm
mua, nhưng về sau
thì có người đến xin bỏ mối
cho quán tôi. Tôi còn nhớ ,
anh bỏ mối rượu
thuốc
cho tôi là một
cựu thiếu
tá chế độ cũ, sau khi đi học tập cải
tạo về làm
công việc
này để phụ với
vợ anh là một
nữ hộ sinh
làm ở một nhà bảo
sanh ở quận 4. Còn về bia,
trước
khi lấy
mối ở cục đường
sắt thì tôi lấy
mối của
một anh cựu
cảnh sát công lộ trước 75. Gia đình anh này ở khu
Lý Nhơn mà
thời đó, muốn
vào nhà anh tôi phải đi qua bao chiếc cầu ván gập
ghềnh
bắc qua những
ao vũng. Anh có một cô con gái thật đẹp gả cho một
anh chàng không được đẹp trai và anh này biết mình có diễm
phúc nên chiều
chuông vợ hết mực. Nghe
nói khi trời
mưa, cầu lắm bùn trơn trợt. anh bồng vợ từ ngỏ vào đến nhà. Khi anh cựu cảnh
sát công lộ không
làm nghề bỏ bia nữa
thì chính bà vợ anh
ta giới
thiệu
tôi lấy
bia ở cục đường
sắt vì chị làm
việc ở đó.
Khi tôi làm cửa
hàng ăn uống ở phường
9, quận
3 thì có một
anh cựu
thiếu
tá thiết
giáp chế độ trước vừa đi học
tập cải
tạo về đến xin bỏ mối
khô bò. Anh ở tận Châu Đốc
có vợ bán
mắm trong chợ.
Ở khu
vực chợ Cầu Muối
này, vì dân địa
phương đa số là
người
gốc Hoa nên họ ăn nhiều hơn nhậu. Bán bia, rượu thì lời nhiều
hơn bán thức ăn, do đó thu nhập của
tôi ở đây không bằng
những
chỗ trước kia. Nhưng nhờ ở khu người
Hoa nên tôi học được một ít tiếng
Tàu để chào
mời khách.
Ngoài bia và rượu thuốc, chúng tôi còn bán rượu
mạnh. Nhưng thời đó làm gì có Whisky, Martel, Hennessy... như trước 75 hay như bây giờ. Thứ rượu
mạnh thông dụng
lúc đó
Rivalet. Một
buổi
tối,có một
nhóm thanh niên vào cửa
hàng ăn uống
của tôi gọi đồ ăn và một
chai Rivalet. Khi cậu
Tư tôi mang chai Rivalet ra, một
thanh niên chụp
lấy và nói: chai rượu
này ở ngoài
"luồng"nên
không được
phép. Thì ra họ là
nhân viên ban quản
lý thị trường phường 20. Họ lập
biên bản
và ngày hôm sau cửa
hàng ăn uống
của tôi bị đóng cửa.
Anh Thành, người bỏ mối
khô bò cho tôi khi biết
cửa hàng ăn uống ở phường
20 quận
1 của
tôi bị đóng cửa, đến gặp tôi và hỏi
vợ chồng
tôi có muốn đi qua Kampuchia buôn bán không? Chán
ngán vì mở quán
tư nhân không được,
hợp tác với địa phương để mở cửa
hàng ăn uống
cũng không yên nên vợ chồng
tôi quyết định thử thời
vận một
lần nữa
xem sao. Anh dẫn
tôi đến
nhà một
cô gái ở góc đường Cô Giang và Đề Thám giới thiệu
tôi với
gia đình
cô. Cô ấy
cho biết
sáng ngày mai bạn
trai cô ấy
sẽ cùng đi với
cô qua Kampuchia tìm việc
làm ăn. Cậu
trai này thường
xuyên qua lại
giữa
Việt
Nam và Kampuchia nên rành đường đi nước bước. Nếu vợ chồng tôi muốn đi chung, ngày mai đến đó cùng đi. Vợ chồng tôi không do dự gom
góp một
mớ tiền
dành dụm được từ khi làm quán ăn,
gởi hai đứa
con cho ông bà nội
chúng, rồi
sáng sớm
hôm sau đến đi cùng cặp
trai gái trẻ ra
bến xe miền
Tây bằng
xe làm ba bánh.
Chúng tôi đi xe đò xuống tới
Châu Đốc
thì trời đã về chiều. Vào chợ Châu Đốc, chúng tôi hỏi thăm nhà
vợ anh Thành bán mắm
trong chợ và
tìm được
nhà anh Thành. Anh Thành bảo
chúng tôi đi qua Nam Vang trước,
anh sẽ qua
sau.
Vợ chồng tôi và cặp
thanh niên đó
xuống
bến đò
Châu Đốc
và tôi đưa tiền
cho cậu
thanh niên trả tiền đò
cho 4 người đi đến Tân Châu, sát biên
giới
Kampuchia. Đến
nơi, trời đã tối
hẵn. Chúng tôi lên bờ chờ tàu chở qua
biên giới. Đó là năm 1985, bộ đội Viềt Nam còn đóng ở Kampuchia nên người
Việt
Nam qua lại
hai nước
thường
xuyên. Vài chiếc đò khác cũng cặp
bờ và đổ người lên. Khi tàu lớn đến,
tất cả mọi người
lên tàu và có người đến thâu tiền. Nhưng tàu
chạy
chưa được
bao lâu thì có tiếng
người
trên tàu hô to: có công an, chúng tôi ghé vào bờ,
bà con mạnh
ai nấy
chạy
kẻo bị bắt. Thế là
khi tàu vừa
cặp bờ,
mọi người
nhảy
lên bờ chạy vào xóm nhà nơi có
ánh đèn.
Thật
ra từ Việt Nam sang Kampuchia cũng
xem như là vượt
biên nên ai cũng sợ bị bắt. Chúng
tôi chạy
tán loạn
vào xóm nhà đó
và vợ chồng tôi bị lạc nhau. Tôi chạy
vào một
ngôi nhà và người
trong nhà chỉ tôi
chui vào mùng một đứa bé trai. Đang ngủ, em bé mở mắt
nhìn tôi, xích vào một
bên để tôi
nằm rồi
tiếp
tục ngủ như không có gì xảy
ra. Chắc
là người
dân ở đây quen cảnh
tượng này rồi.
Tờ mờ sáng hôm sau, người
nhà đó
hỏi tôi có muốn
tiếp
tục qua Miên không, họ sẽ dẫn
tôi xuống
tàu Miên chở qua
Neak Lung. Tôi đồng
ý, họ dẫn tôi đi trên
một con đường
bùn lầy,
trơn trợt
vì đêm
qua trời
mưa. Tôi
trượt
té nhiều
lần và quần
áo lấm
lem. Họ đưa tôi lên tàu không quên đòi tiền. Nhiều người
khác cũng được đưa lên tàu giống như tôi. Ngồi trên tàu, tôi lo lắng,
không biết
vợ tôi có được
người
ta đưa ra tàu
này hay không. Độ nửa giờ sau
tôi thấy
vợ tôi lên tàu. Một
lát sau thì cặp
nam nữ đi chung với tôi cũng lên tới. Gặp nhau chúng tôi mừng
quá. Một
người
Miên nói tiếng
Việt
lơ lớ đến thâu tiền từng
người
khách.
Tàu
chạy đến trưa thì tới
Neak Lung, mọi
người đổ bộ lên bờ tìm
chỗ làm
vệ sinh, ăn
uống và đổi
tiền
Việt
sang tiền
Miên. Xong, từng
nhóm đón xe đò đi Nam Vang.
Xe đò đi đến
cầu Sài Gòn, một địa điểm mà người Việt tập
trung rất đông, thì dừng
lại. Đa số khách
người
Việt
xuống xe tại đây.
Chúng tôi vẫn
ngồi
trên xe để đi vào thành phố Nam
Vang cách đó
khoảng
hơn 5 km.
Tới bến xe,
cặp nam nữ dẫn chúng tôi vào một
chung cư gần
bến xe. Khi vào trong, tôi thấy chung cư này xuống
cấp trầm
trọng. vách tường loang lỗ và cầu
thang trơ cốt
sắt. Cậu
thanh niên hướng
dẫn chúng tôi lên lầu
một và vào một
căn hộ không ngăn phòng. Tôi thấy
một người đàn ông và một
người đàn bà ở lứa tuổi
trung niên đang ngồi may trên
hai chiếc
máy may đặt
song song và lưng của
họ xoay về phía
vách.
Cậu thanh niên giới
thiệu
chúng tôi với
cặp trung niên đó. Tôi được biết người đàn ông được
gọi là anh Hai và người đàn bà là chị Năm. Về sau, cậu thanh niên nói với
tôi biết
họ là những
người đã bỏ lại gia đình
sang đây
kiếm
sống và gá nghĩa với
nhau. Anh Hai và chị Năm tỏ ra rất hiếu
khách, họ hỏi thăm tình
cảnh hai vợ chồng tôi rồi
chị Năm nấu nướng và dọn bữa
cơm chiều ăn chung với chúng tôi.
Tối đến,
chị Năm đem hai cái mùng, một cho vợ chồng tôi, một
cho cặp
thanh niên kia ngủ.
Sáng
hôm sau, anh Hai và chị Năm dẫn chúng tôi ra một quán ăn người
Tàu gần
nhà ăn sáng.
Cặp thanh niên từ giả chúng tôi để đi đến nhà người bạn ở.
Anh Hai về nhà
may đồ còn
chị Năm dắt chúng tôi đi Chợ Cũ (tiếng Miên gọi là Pho sa Chát) để sang
chỗ làm
quán ăn khi biết
vợ tôi chuyên nghề nấu ăn.
Sau
khi hỏi
thăm nhiều
người
Việt
buôn bán trong Chợ Cũ, chúng tôi tìm được
một người đàn bà gọi
là chị Ba đang muốn sang sạp của
chị.
Sau khi mặc
cả, chị Ba đồng ý sang giá 2 chỉ vàng và tôi đặt
cọc trước
1 chỉ,
sau khi đóng đủ sẽ lấy
sạp.
Ngày
17-4 năm 1975, quân
Khmer Đỏ tiến vào Nam Vang. Hầu
hết người
dân trong thành phố bị đuổi
ra ngoài. Thay vào đó
những
người
dân ở quê
kéo vào, mạnh
ai muốn
chiếm
chỗ nào ở thì chiếm. Những cửa
hàng và sạp
trong chợ cũng vậy. Sau khi bộ đội
Việt
Nam đuổi
quân Khmer Đỏ ra
khỏi
thành phố và
người
Việt đổ xô qua đây sinh sống
thì những
người
Miên sang lại
nhà hoặc
tiệm
lại cho những
người
Việt
có tiền
. Giá cả thì
thật
rẻ chỉ có
một vài chỉ cho
một căn hộ trong chung cư hay một sạp bán hàng trong chợ.
Trở về nhà
chị Năm, chị hỏi tôi lộ trình
vợ chồng
tôi đi qua đây. Khi
chúng tôi cho biết,
vợ chồng
tôi phải
trả hết lộ phí
cho cặp
nam nữ dẫn đường để sang đây thì chị cười và nói: "hai vợ chồng
em bị thằng đó
gạt để hai đứa nó đi qua đây khỏi tốn
xu nào". Tôi tự nhủ "thì coi như
trả công người
dẫn đường". Sau
này khi tôi ở nước ngoài và vợ con tôi còn ở lại Việt
Nam, chị Năm có nhiều
lần về Việt Nam và lần
nào cũng ghé ở chơi với
vợ tôi vài ngày.
Chị Năm dắt
chúng tôi đến
nhà một đôi vợ chồng tài xế người Miên tên Nư. Anh Nư lái xe chở hàng đường
Sài Gòn Nam Vang. Anh Nư nói
tiếng
Việt
lơ lớ nhưng chị Nư thì nói tiếng
Việt
rất rành. Chúng tôi sẽ về Việt
Nam gom góp tiền
và dụng
cụ nấu
nướng đem qua Nam Vang. Anh
Nư sẽ chở dùm
các dụng
cụ cho tôi. Sàng hôm sau, vợ chồng
tôi ra bến xe để trở về Việt Nam chuẩn
bị cho chuyến đi thứ hai.
Về Sài Gòn, tôi đem
dụng cụ nấu nướng
ra phía sau Nhà Hát Lớn
(Quốc
Hội cũ) , nơi đoàn
xe chở hàng
Kampuchia đậu để nhờ anh Nư chở qua
Nam Vang. Khi nhận đồ, anh Nư hỏi tôi: "mấy cái nồi
có tắm
rửa chưa?". Ý
anh hỏi
chúng tôi có rửa
nồi niêu sạch
sẻ chưa? Hôm
sau chúng tôi lên đường đi Nam Vang.
Khi
tới Nam Vang, chúng tôi nhờ Mal,
bạn của
thanh niên hướng
dẫn đi Kampuchia mướn
dùm một
căn phòng trong chung cư
gần Chợ Mới (Pho-sa Thơ-mây). Phòng đối diện là hai anh em anh Thành đi
buôn guốc
từ Việt
Nam qua đây. Hôm
tôi tới
thì có một
người
bạn của
anh Thành, tên Hưng đang cải
nhau với
anh Thành vì một
chuyện
nào đó. Hưng bỏ ra ngoài
hành lang giăng mùng
ngủ. Tôi
thấy
bất nhẫn
nên mời
anh vào phòng chúng tôi ngủ đỡ một đêm.
Mal
là một
thanh niên người
Chàm ở Việt Nam, theo đạo
Hồi và nguyên quán ở Phan
Rang. Cậu
ta là bạn
của một
thiếu
úy Miên ở đây cũng tên
là Mal và theo đạo
Hồi. Tôi phân biệt
hai người
tên Mal, người ở Việt
Nam tôi gọi
là Mal nhỏ,
người ở Kampuchia là Mal lớn.Mal
lớn là chủ căn nhà tôi mướn.
Chúng
tôi trả nốt chỉ vàng
còn lại để nhận cái sạp
bán hàng trong Chợ Cũ. Chúng tôi bán cơm với
vài món ăn: gà
rô-ti, thịt
kho, tôm rang, rau xào, canh cải...và
bán thêm rượu.
Tôi học
vài câu tiếng
Miên để mời chào khách:
"Bòn ơi, xi bai tê? (Anh, chị ăn cơm không?)
"Bòn ơi, phấc so-ra tê?" (Anh
uống rượu
không?).
Người Miên không như người Việt, họ không
biết
lo xa. Tôi thấy
buổi
sáng họ xuống bến
tàu làm phu bốc
vác kiếm
một ít tiền. Đến buổi trưa, họ ra
chợ ăn cơm, uống rượu đến say mèm rồi kiếm
một cái sạp
trống để ngủ.
Anh
Hưng, người gốc Hanh Thông Tây, là em của
một sinh viên tranh đấu
trước
năm 1975. Anh của Hưng lúc đó
là giám đốc
của công ty du lịch,
trụ sở ở Đệ Nhất Khách Sạn
cũ. Trong thời gian chờ đợi
tìm một
công việc
thích hợp,
Hưng làm thợ hớt tóc. Vì không phải
là tay nghề,
một hôm anh hớt
cái đầu
một em bé Miên bên thấp,
bên cao bị mẹ của
em cự nự thì Hưng chỉ lên
trời đổ thừa tại
trời
mưa.
Chị Năm và
Hưng thỉnh thoảng ghé sạp
bán cơm của
tôi ăn uống.
Những
lần đó
tôi mua một
chai rượu
mạnh hiệu
Bayon để chung vui
với những
người
bạn mới.
Có điều
những
món ăn vợ tôi
nấu thì rất
ngon đối
với người
Việt
nhưng không
hợp khẩu
vị người
Miên nên việc
buôn bán của
chúng tôi không khá lắm.
Một hôm, bán xong ở chợ về khi
vợ tôi mở hộc tủ ra
cất tiền
thì nàng khám phá mấy
ngàn ria (tiền
Miên) để trong đó không còn nữa. Ai đã vào phòng chúng tôi mở tủ lấy
hết tiền
của chúng tôi rồi. Vợ tôi bật
khóc nức
nở. Chúng tôi còn vốn
liếng đâu để bán
quán ăn nữa. Theo
lời anh Thành, thì chắc
chăn thằng
em vợ của thiếu
úy Mal đã
làm chìa khóa giả vào
phòng tôi cạy
tủ lấy
hết tiền
của chúng tôi. Nhưng
chúng tôi không bắt được tại trận
thì làm sao quả quyết chính nó ăn cắp
tiền
của chúng tôi được.
Tôi có
quen một chú bộ đội Việt Nam thường
đến sạp tôi ăn cơm trưa Hôm sau ngày
tôi bị mất tiền, chúng tôi ra sạp để
dọn dẹp đồ đạc đem về nhà thì chú
bộ đội đến định ăn cơm
trưa. Thấy
chúng tôi dẹp quán chú ấy hỏi tại sao chúng tôi
nghỉ bán. Sau khi tôi trình bày lý do thì
chú ấy nói tôi dẫn chú ấy về nhà kiếm thằng
em chủ nhà. Vừa gặp thằng em chủ nhà chú bộ
đội hỏi ngay:"Mày ăn cắp tiền của
anh chị tao phải không?" . Thằng Miên vừa
bỏ chạy vứa trả lời bằng tiếng
Việt lơ lớ:"Tôi không có lấy". Xong nó bỏ chạy ra
đường, mất dạng.
Thiếu
úy Mal lớn là một người đàng hoàng, mhưng
thăng em vợ của anh ta khoảng 17, 18 tuổi là
một tên du thủ
, du thực. suốt ngày lêu lỏng ngoài
đường với chúng bạn, tối đến
gần giờ giới nghiêm nó mới mò về nhà. Lúc chúng
tôi mới dọn tới, nó nhìn chúng tôi vẻ mặt dò
la. Anh
Thành có dặn tôi cẩn thận về việc cất
dấu tiền bạc, nhưng tôi không ngờ nó táo tợn
như vây, Hôm sau, nó gặp tôi ở cầu thang nó hăm
tôi:" Ông dám kêu bộ đội Việt Nam tới
đánh tôi, ông coi chừng tôi đó."
Khi vợ tôi nghe tôi kể lại chuyện
thằng em chủ nhà hăm tôi như vậy. nàng nói: "Mình nên dọn đi chỗ khác , chú
bộ đội đó có lòng tốt muốn giúp mình
nhưng chú ấy có ở bên cạnh mình hoài được
đâu". Thế là chúng tôi trả phòng lại và
mướn chỗ ở chung với anh Hưng trên lầu
một chung cư gần chợ Ô-Xây.
Trong
các chợ ở trung tâm thành phố Nam Vang thì chợ Ô-Xây là
sung túc nhứt. Ở
đó có đủ loại hàng hóa, từ thực phẩm,
trái cây, gia vị, hàng gia dụng, điện tử và
cả vàng bạc nữa. Những tiệm lớn
đều là của người Hoa. Người Miên buôn bán
nhỏ. Còn người Việt thì nói ra thật đau
lòng. Đa số làm nghề hàn quai dép. Thời
ấy ít có người mang giày, đa số mang dép, ai có
tiền thì mang dép da, ai ít tiền thì mang dép cao su. Loại
dép cao su tốt nhứt là dép Lào. Tôi
nhớ lại có một lần, lúc còn bán quán ở Việt
Nam, hôm tôi đi thăm đứa con trai nhỏ của
bạn tôi là anh họa sĩ Hải Vân, nằm ở
bệnh viện Saint-Paul vì mắc cổ hạt dưa, tôi
bỏ đôi dép Lào ngoài cửa dể vào phòng thăm. Khi trở ra thì đôi dép tôi
không cánh mà bay mất. Báo hai hôm ấy tôi phải đi chân không về
nhà. Còn nữa, sau này lúc tôi gần trở về
Việt Nam, tôi mang một đôi dép cao su mà cả hai
chiếc đều đứt quai đưoc nối
lại bằng dây kẻm.
Sau khi
mướn nhà chỗ mới xong, đang lang thang
tìm thứ gì để buôn bán, vợ chồng tôi gặp
được bà tám Cấy, người lối xóm,
ngụ ở hẻm Công An phường 14, quận 4. Bà
ấy lấy một người Tàu và cả gia đình bà
sang đây làm ăn. Bà dẫn chúng tôi đến nhà bà. Chúng tôi theo bà leo lên mái một chung
cư. Chỗ lỗ thông hơi của chung cư
có mái che, là nhà của gia đình bà tám Cấy. Ông tám Cấy
che thêm một miếng vải bạt để nới
rộng diện tích căn nhà. Đây là căn nhà có một
không hai trên thế giới!
Ông bà
tám Cấy có hai đứa con, đứa nhỏ theo ông
bà buôn bán. Đứa lớn đi làm móng tay. Ông bà chiên bánh tiêu và bánh giò
chó quẩy bán gần quán cà phê lề đường
của ông Năm gần chợ Ô-Xây. Ông bà nghe chúng tôi cho biết
tiền bạc bị mất cắp hết chỉ còn
chút đỉnh
thì khuyên vợ tôi bán bánh cuốn không cần vốn nhiều. Thế
là chúng tôi nhờ anh Nư mua dùm dụng cụ tráng bánh
từ Việt Nam đem qua. Còn
cái sạp ở Chợ Cũ, chúng tôi nhờ chị Năm
rao coi có ai muốn sang không. Nhưng cho tới ngày chúng tôi
trở về Việt Nam cũng chẳng có ai sang, chúng
tôi đành bỏ không.
Ông tám
Cấy nói với ông Năm cà phê cho chúng tôi đặt bàn và
nồi tráng bánh cuốn gần quán của ông và khi dẹp
hàng có thể gởi bàn ghế và dụng cụ chung
một chỗ với ông ở gầm của một
căn chung cư tại đó và chịu trả một ít
tiền cho chủ nhà. Tôi nghỉ ra cách kiếm thêm
tiền phụ vợ bằng cách mượn chiếc xe đạp
của anh Hưng lót một bao plastic trên porte bagage
để làm xe đạp ôm tiếng Miên gọi là
"koong đúp". Còn vợ tôi bán bánh cuốn gọi là bán "num
cắt".
Thế
là mỗi sáng, tôi dọn bàn ghế, lò, nồi cho vợ
tôi. Nàng lo
tráng bánh còn tôi đi
lấy mối bánh cống ở một bà người Tàu
trong một hẻm cách chỗ vợ tôi bán cũng không xa. Tôi lấy năm chục bánh được
bà "khuyến mãi" cho một bánh để tôi
điểm tâm trước khi chạy xe ôm.
Tôi đạp xe rề theo các bà Miên đang cắp rổ rá
đi bên đường, miệng mời chào:"Bòn ơi
tâu na?, Tâu pho-sa?Tâu pho-te?" (Chị đi đâu?Đi chợ? Đi về nhà). Có
lần tôi rán sức chở một bà Miên thật mập
đạp xe ngang quán bánh cuốn của vợ tôi không quên
kêu tên nàng. Vợ tôi nhìn theo cười nhưng tôi
biết đó là nụ cười có kèm theo nước
mắt.
Vợ tôi có một thằng em tên Thành đi
nghĩa vụ quân sự ở tỉnh Pun-Sat. Nay
vợ chồng tôi có mặt tại Nam Vang
thì đây là dịp thuận tiện để đi thăm nó. Thế là vợ tôi nghỉ bán bánh cuốn, tôi nghỉ chạy xe ôm
quyết định đi Pun-Sat. Anh Hưng cũng nghỉ hớt tóc đi theo chúng
tôi cho vui. Tôi ra ga xe lửa mua ba
vé đi Pun-Sat. Khi ngồi
trên xe lửa, nhìn quanh
quất trên toa, tôi
chỉ thấy toàn là người
Miên chỉ có 3
chúng tôi là người
Việt. Phần đông hành khách
là những phụ nữ Miên đi buôn bán với thúng, rổ lỉnh kỉnh chung quanh.
Xe lửa đang chạy
bỗng thắng và dừng lại. Tôi
nghe phía trước
có nhiều tiếng súng nổ. Các bà
Miên nhìn nhau lo lắng. Qua
câu chuyện trao đổi giữa
họ, tôi hiểu loáng thoáng
là lính Pôn Pốt định phục kích xe lửa
bị bộ đội Việt
Nam đến
giải tỏa. Các bà Miên này đi
buôn bán thường
xuyên bằng đường xe lửa nên quen thuộc với cảnh đụng độ giữa hai bên. Chúng tôi lo sợ,
nếu bọn Pôn Pốt thắng và lên cướp xe lửa thì chúng chẵng tha chết cho chúng tôi vì nghe nói bọn
Pôn Pốt gặp người
Việt là giết ngay. Vợ tôi run rẩy, nép sát vào tôi và nắm
chặt lấy tay tôi.
Một lát sau, tiếng súng im bặt và xe lại
chuyển bánh. Mọi người
thở phào nhẹ nhõm. Chắc
là bọn Pôn Pốt đã bỏ chạy.
Xe chạy ngang một khu chợ lụp xụp lợp bằng lá trước
khi vào thành phố Pun-Sat . Sau
này tôi được
biết đó là chợ Pun-Sat,
lúc trước ở bên trong thành phố nhưng nay bộ chỉ huy trung đoàn
bộ đội
Việt Nam đóng trong thành phố nên chợ bị dời ra ngoài.
Chúng tôi hỏi thăm tìm đến đại đội thằng
em vợ tôi. Thành
gặp chúng tôi lên thăm mừng
rở, dẫn chúng
tôi đến
gặp thiếu úy đại đội trưởng
của nó. Anh này còn trẻ dộ ngoài hai mươi, vui vẻ đón tiếp chúng tôi. Anh
ta bảo lính luộc một con gà, trộn gỏi đãi chúng tôi. Ở đây chỉ có rượu đế nên tôi đành phải rán uống sec những chung rượu 40 độ cồn đó cho đúng phép lịch sự với anh đại đội trưởng
này. Trước
75, tôi chỉ quen
dùng bia và rượu
Cognac, sau này thì bia hơi hoặc
Rivalet chớ rượu đế cháy gan này, tôi ít
khi đụng
tới.
Sau bữa tiệc dã chiến, anh đại đội trưởng
này dẫn chúng tôi lên
nhà khách trung đoàn để ở đó sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. Chỗ ngủ chúng
tôi ở trên lầu, mỗi người ngủ một giường
sắt có trải chiếu và có giăng mùng
coi tươm tất
hơn chỗ ngủ của chúng
tôi ở Nam Vang
là nằm ở dưới
sàn.
Bữa sau, chúng tôi dẫn Thành đi ăn ở căn tin và tối đến đi xem trình diễn văn nghệ trong
rạp hát. Nhưng buổi
tối về phòng ngủ, chúng tôi mất "quy chế" khách VIP vì bộ chỉ huy trung đoàn
ban đầu
tưởng chúng tôi là thân nhân của một sĩ quan trong đơn vị nên để chúng tôi ở chỗ khang
trang. Giờ họ biết chúng tôi chỉ là thân nhân của
một thằng lính trơn, lại bỏ ngũ ở Bắc -đơm -bon chạy
về hậu cứ nên bảo chúng tôi xuống ngủ dưới phòng chờ của nhà tiếp tân. Thế là chúng
tôi xuống đó trải chiếu, giăng mùng
ngủ trên sàn
gạch như ở Nam
Vang..
Sáng hôm sau,
chúng tôi từ giả Thành và anh đại đội trưởng
tốt bụng của nó để về lại Nam Vang. Thành
nhìn theo chúng tôi ra cổng,
vẻ mặt buốn bã.
Trở
lại Nam Vang, chúng tôi tiếp tục hành nghề cũ:
vợ tôi bán bánh cuốn, tôi chạy xe ôm
và anh Hưng hớt tóc. Chủ nhà cho chúng tôi và anh Hưng
mướn là một người đàn bà Miên, không
thấy chồng chị đâu nhưng chị có 3
đứa con mà tôi nghe nói có 3 người cha khác nhau.
Đứa lớn nhứt là con gái vừa đến
tuổi cập kê đang có bầu mà tác giả là ai mẹ
nó cũng không biết. Người Miên có vẻ sống bằng bản
năng không cần suy tính rắc rối như
người Việt. Bà chủ có hai
người bạn: một người là cô giáo ở bên
cạnh nhà và một người buôn bán ngoài chợ Ô-Xây.
Thỉnh thoảng tôi thấy họ dắt một ông bồ
về nhà bà Miên chủ nhà tôi để bù khú . Hèn chi, con gái bà chủ nhà
sớm hư hỏng. Đứa con gái
giữa của bà chủ nhà độ 12, 13 tuổi có
vẻ ngoan, ở nhà thường xuyên. Còn thằng con trai út
của bà độ 10 tuôi thì đi chơi lang thang
ngoài đường suốt ngày. Tôi hành nghề xe ôm
chở khách khắp nơi trong thành phố nên thường
gặp nó khi thì trước ga xe lửa, khi thì ở một ngôi chợ.
Khi
Khmer Đỏ chiếm Nam Vang thì dân thành phố bị
đuổi đi vào các trại tập trung, dân quê
kéo vào ở, những cơ sở hạ tầng
như: cống, nước, điện không
người bảo trì nên xuống cấp trầm
trọng. Trước
khi bị lôi cuốn vào cuộc chiến Việt Nam,
Kampuchia là một đất nước yên bình, vua Sihanouk và
hoàng hậu Monique lai Pháp xinh đẹp được
người dân Miên yêu kính. Kampuchia lúc đó giữ
vị trí trung lập trong chiến tranh lạnh nên
đước các phía vuốt ve. Thành
phố Nam Vang được huy hoạch tân tiến hơn
cả miền Nam Việt Nam trước 75 với
những chung cư khang trang, đường sá rộng
rải, thảng tấp. Thành phố cảng Sihanoukville và xa lộ từ
Nam Vang dẫn xuống đó được Hoa Kỳ xây
dựng và phu nhân tổng thống Mỹ thời đó là bà
Jacqueline Kennedy khánh thành là một niềm tự hào của
Kampuchia. Nhưng đén khi tôi
sang đến Nam Vang năm 1985 thì Nam Vang là một thành
phố hoang tàn trong cuộc chiến giữa bộ
đội Việt Nam và bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Công tâm mà nói nếu không có sự can thiệp
của Việt Nam vào Kampuchia thì bọn Pôn Pốt
sẽ còn giết thêm vài triệu người nữa.
Đường sá trong thành phố Nam Vang ngập
đầy rác. Người ta phóng uế bừa bải trên
những bậc thang. Thế mà tôi và anh
Hưng phải thay phiên mượn quang gánh và hai cái thùng
thiếc của chủ nhà, hứng nước
từ vòi nước công cộng dưới sân
gánh lên lầu đổ vào hồ nước
của căn hộ chúng tôi ở để tắm
rửa, nấu nướng. Từ nhỏ tới lớn,
tôi chưa từng làm việc nặng nhọc mà giờ đây tôi phải mang mỗi
lượt 40 lít nước từ dưới đất
lên lầu.
Có
những buổi chiều, ăn cơm xong, tôi chở
vợ tôi xuống bờ sông Tonlé-Sáp sgồi hóng
mát. Nhìn măt nước, sóng gợi lăn tăn tôi nhớ Sài Gòn và hai đứa con
nhỏ da diết. Tôi thầm nghỉ, vợ
chồng tôi sang đây làm gì để chuốc những
điiều cực khổ.
Một
hôm ông tám Cấy nói với tôi:"Ông Năm cà phê cho
biết ông ấy để quên cái đồng hồ trong
hộc tủ bàn tính tiền của ông khi dẹp quán đem bàn, ghế
vào chỗ gởi đồ chung với tôi. Sáng hôm sau, ông ấy khám phá
đồng hồ ông bị mất. Ông nghi tôi lấy cái
đồng hồ đó. Ông
tám Cấy có nói với ông Năm là trước đây,
ở Việt Nam tôi từng làm chủ một quán ăn lớn,
chắc không làm vậy đâu". Tôi nói cám ơn ông tám
Cấy đã tốt bụng đính chánh cho tôi nhưng lòng
thầm nghĩ: người ta thấy mình nghèo nên cho
rằng mình tham lam vì ngạn ngữ có câu :'bần
cùng sinh đạo tặc". Tôi cảm thấy chua xót.
Anh
Nư tài xế có căn hộ trong cùng chung cư
với tôi. Chị Nư là vợ bé của anh. Chị có
thằng con trai riêng độ 20 tuổi. Thỉnh
thoảng chị Nư nấu một vài món ăn mời
vợ chồng tôi qua ăn uống với anh chị. Tôi và
anh Nư uống consomation rượu Bayon
với soda. Một đêm công an Miên xét nhà tôi ở
bắt tôi và anh Hưng xuống trụ sở công an
phường vì chúng tội không có tên trong sổ hộ
khẩu. Vợ tôi chạy sang nhà chị Nư cầu cứu.
Chị ấy bảo vợ tôi đưa một số
tiền cho thằng con trai chị ấy xuống trụ
sở công an đưa cho họ để bảo lãnh tôi
và anh Hưng ra.
Mẹ
con bà Miên ăn ở không được sạch sẻ cho
lắm. Nhiều lần tôi thấy thằng con trai út ăn cơm
bỏ mứa, để chén cơm lăn lóc giữa nhà
rồi đi ra khỏi nhà. Sau đó có những con chuột
bò vào chén cơm của nó. Tối đến, nó về nhà
bưng chén cơm lên ăn tiếp mặc cho tôi
ngăn cản. Có lẽ vốn liếng tiếng Miên
của tôi không đủ cho nó hiểu sự nguy hiểm
của chén cơm đó.
Để
giết bớt lũ chuột trong nhà, tôi chế một cái bẫy
chuột thật đơn giản. Tôi đổ nước vào một cái chén, để một miếng
plastic trên miệng chén rồi rải vài hột cơm phía
trên. Con chuột nào tham ăn, bò lên miếng plastic sẽ
rơi xuống nước. Đêm nào cũng có một hai
con chuột rơi vào bẫy của tôi.
Một
hôm Hưng cho vợ chông tôi biết anh sẽ về
Việt Nam làm đám cưới với một
người bạn gái từ thời còn đi học và
đem chị ấy qua. Vài hôm sau, hai vợ chồng anh Hưng qua tới
Nam Vang. Anh Hưng làm rideau che chắn chỗ ngủ
của hai người cẩn thận vì họ là vợ
chồng son.
Gần sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày
vợ chồng tôi đến Nam Vang. Chúng tôi chán nản cuộc
sống cơ cực bên đây nên quyết định
trở về Việt Nam. Nhưng
chúng tôi không đủ tiền đi tàu xe về
Việt Nam. Anh
Hưng đề nghị cho chúng tôi mượn tiền. Không
còn cách nào khác, chúng tôi phải nhận nghĩa cử đó
của anh. Sau khi vợ chồng tôi đi rồi, vợ
chồng anh Hưng dời về khu cầu Sài Gòn ở.
Thế là chuyến phiêu lưu của vợ
chồng tôi ở xứ Chùa Tháp kết thúc trong thất
bại. Hai câu ca dao:
"Nam
Vang đi dễ, khó về,
Trai
đi có vợ, gái về có con"
được tôi
sửa lại là:
"Nam
Vang đi dễ, khó về
"Khi
đi mang dép, khi về chân không"
cho đúng với
trường hợp của vợ chồng tôi.
Về
tới nhà, gặp lại hai đứa con sau nửa
năm trời xa cách, chúng tôi rất sung sướng và
những nỗi nhọc nhằn trước đó hầu
như tan biến. Chúng tôi dẫn hai con ra chợ Xóm
Chiếu gọi hai tô hủ tíu mì cho chúng ăn. Nhìn hai
đứa ăn một cách ngon lành, vợ tôi không cầm
được nước mắt.
Thằng Được, em vợ tôi, nhà ở
đường Nguyễn Khoái, có quen với ông chủ
tịch phường 1, quận 4. Nó giới thiệu với
ông ta là vợ chồng tôi chuyên mở quán ăn. Ông chủ tịch đồng ý cho chúng tôi
khai thác cửa hàng ăn uống của phường nằm sát
bờ sông, đối diện cù lao Nguyễn Kiệu.
Cửa hàng này đang giao cho bà Oanh làm nhưng không có đông
khách hàng.Ông muốn giao cho chúng tôi để có thể thu hút
nhiều khách hàng hơn. Bà Oanh thì không xa lạ gì với chúng tôi. Lúc chúng tôi mở quán tư nhân, bà ta
cũng mở quán ăn như chúng tôi ở cùng quận 4 này. Quán bà
bán cũng được nhưng ông chồng bà đã không
giúp vợ lại nhậu say sĩn suốt ngày và
thường hay quậy phá nên bà bị mất khách.
Để chuẩn bị mở quán, vợ tôi và má tôi đi
một chuyến sang Kampuchia để trả tiền tôi
còn thiếu anh Hưng đồng thời lấy dụng
cụ nấu nướng mà chúng tôi gởi anh ấy
giữ dùm trước khi về Việt Nam. Khi về,
vợ tôi thuật lại khi tìm được nhà anh
Hưng ở cầu Sài Gòn, nàng trông thấy vợ chồng
anh ấy ở trong một căn nhà lá lụp xụp sát mé
sông. Hưng
đang hớt tóc cho khách còn vợ anh mặc quần
ống thấp, ống cao đang nấu cơm. Tôi
thở dài thấy thương hại cho vợ chồng
anh. Tôi nghĩ thà ở Việt Nam vợ chồng anh ấy còn có
thể xoay sở khá hơn.
Cũng
giống như ở phường 9, quận 3 trước
đó, phường 1 cử một cô gái làm thư ký
để ghi vào sổ thu nhập của cửa hàng. Chúng
tôi vẫn lấy mối rượu thuốc của ông
thiếu tá người Huế và bia hơi ở cục
đường sât, Còn bia chai và nước ngọt chúng tôi
lấy ở anh vợ của anh Thành, người bỏ mối khô bò cho
chúng tôi. Anh vợ của anh Thành là một
đại úy chế độ cũ, sau khi đi cải
tạo về anh mở một đề pô bán
rượu, bia và nước ngọt tại nhà anh ô quận
8. Anh ta dùng xuồng chèo từ bên kia sông sang đến phía
sau quán của tôi để giao hàng.
Ngày
khai trương cửa hàng, cũng như ở những
chỗ khác trước đó, khách đến ăn uống
đông nghẹt. Ở
đây, chúng tôi không chỉ bán các món nhậu mà còn phải
bán thêm cà phê và phở. Nhưng số
của tôi vẫn còn lận đận, chỉ sau vài tháng
dù chưa hết hợp đồng, không biết cô thư ký đã báo cáo thế nào mà bà bí thư
phường xuống cửa hàng làm khó dễ chúng tôi. Chán ngán, tôi xin thôi không khai
thác cửa hàng nữa để trả lại cho hợp
tác xã của phường. Có
người khách cho biết, cô thư ký thân với bà Oanh nên
muốn phường lấy lại cho bà ấy trở
lại khai thác.
Đang không biết làm gì để sống thì bà
Mạnh ở đường Phạm Ngũ Lão, quận 1
mời lvợ chồng tôi lên nhà bà ấy chơi. Đến nơi bà Mạnh than thở:"
Trước đây vì nghe lời ông Sứ nên bác đã
lấy nhà lại cho cháu ông ấy mở bán lẩu dê. Nhưng quán làm không ngon nên
không bao lâu phải dẹp quán. Bây giờ bác muốn giao nhà
lại cho tôi khai thác."
Tôi
nhìn qua bên kia đường, rạp xi nê Quốc Tế
đông nghẹt khách đang chen lấn để mua vé vào
xem. Tôi chợt nghĩ ra tại sao không lấy nhà bà
Mạnh làm chỗ giữ xe. Thế là bà Mạnh lên
phường xin giấy phép mở điểm giữ xe đạp.
Vợ chồng tôi phụ trách xếp chỗ
để xe và kiểm soát vé. Công việc cũng nhàn
hạ nhưng lúc tan hát, mọi người ùn ùn kéo tới
lấy xe thì vợ chồng tôi rất vất vả.
Nhưng vận đen không buông tha cho tôi. Một hôm, khi rạp Quốc Tế hết
xuất hát, khách xem phim ra về và kéo sang điểm
giữ xe của chúng tôi để lấy xe rất
đông. Thăng Được, em vợ tôi, đạp
xích lô ngang đó thấy vậy cũng vào phụ chúng tôi
nhận vé và trả xe. Nhưng có một cậu
thanh niên trình vé cho chúng tôi mà không có xe để
giao lại cho cậu ta. Ai đó đã thừa cơ
hội lộn xộn đã đánh căp chiếc xe đó.
Bao nhiêu tiền bạc của chúng tôi đã tiêu tan ở bên Kampuchia nên tôi không còn
đủ tiền để đền. Má tôi phải cho
chúng tôi năm phân vàng để tôi bán ra đền cho chủ xe.
Trong
lúc tuyệt vọng vì không còn phương cách
nào sinh sống và lo cho vợ con thì cô bảy tôi giúp cho tôi ra
đi.