Chương 6 - Tuổi trẻ trong thời chinh chiến
Cuối
năm 1967, tôi đang dạy học ở trường trung học
công lập Vĩnh B́nh, Trà Vinh th́ nhận được lệnh
gọi nhập ngũ khóa 27 sinh viên sĩ quan trừ bị
Thủ Đức. Cùng có lệnh gọi như tôi có anh Trần
Kim Hoàng dạy Lư Hóa, anh Nguyễn Văn Tâm dạy Anh
Văn bên trường công lập và anh Văn Tường
dạy Quốc Văn bên
trường bán công. Biết rằng, làm trai trong thời loạn
th́ nhiệm vụ phải bảo vệ quê hương,
nhưng đang làm thầy giáo sống êm đềm cạnh
bảng đen, phấn trắng và với sự kính yêu của
học tṛ, nay phải từ giả môi
trường thân thương đó lên đường cầm
súng xông vào lửa đạn, làm sao tôi không tránh khỏi nỗi
buồn.
Trước
ngày lên đường trở về Sài G̣n để tŕnh
diện nhập ngũ, mỗi lớp có
tôi dạy đều tổ chức tiệc tiễn
đưa hay đêm lửa trại từ giả tôi. Buổi chia tay
nào mà không đầy nước mắt, nhứt là các em nữ
dễ cảm xúc v́ các em đều biết: xưa nay chinh
chiến mấy ai về!
Nhưng có quyến
luyến nhau đến mấy th́ giờ phút xa cách nhau
cũng phải đến. Một
ngày gần Noel năm 1967, tôi lấy chiếc xe Honda 67
chở ba: Hoàng, Tưởng và tôi từ Trà Vinh về Sài
G̣n. Tôi và Hoàng đi nhập ngũ c̣n
Tưởng về Sài G̣n nghỉ phép.
Có một
sự bất công trong việc sắp xếp gọi nhập
ngú các người trong ngành giáo dục thời đó. Khi bộ Quốc Pḥng đưa
công văn sang Bộ Giáo Dục để chọn số
giáo sư nhập ngũ th́ những vị có thẩm quyền
ở Bộ Giáo Dục lư luận rằng: nên cho nhập
ngũ những người trẻ tuổi nhất v́ họ
chưa nắm những chức vụ quan trọng trong
ngành và những người lớn tuổi nhứt v́ nếu
không th́ họ sẽ quá tuổi động viên. Rốt cuộc
rồi th́ những người ở lứa tuổi
lưng chừng không phải đi học sĩ quan v́ đến
khi ông Trần Văn Hương lên làm thủ tướng,
ông ban hành sắc lệnh cho động viên tại chỗ
các giáo chức th́ mấy ông ở tuổi lưng chừng
đó chỉ đi học 9 tuần cơ bản quân sự
ở các Trung Tâm Huấn Luyên binh sĩ rồi trở về
dạy học lại. Năm đó tôi mới 23 tuổi nên
lọt vào danh sách nhóm trẻ tuổi nhất phải học khóa sĩ quan
và ra đơn vị. Một số vị giáo sư lớn
tuổi như các thầy Vơ Thế Hào, Nguyễn Thanh Liêm,
Trần Bích Lan...th́ rơi vào nhóm già nhứt đi học
sĩ quan. Sau 1975, nhóm trẻ nhứt và già nhứt phải
bị đi tù cải tạo v́ là sĩ quan, c̣n những ông
"lưng chừng" đó , khỏi phải đi v́ mấy
ông ấy chỉ là "binh nhi".
Tôi tŕnh
diện tại sân vận đông Cộng Ḥa ở quận
5. Khi các chiếc
xe GMC chở đám tân binh chúng tôi di chuyển trong thành phố
để lên Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Và Nhập Ngũ th́ tội
nghiệp các anh cảnh sát đứng gác trên lộ tŕnh của
những xe này bị các anh em tân binh trút sự bất b́nh nhứt
thời của họ bằng cách ném các vỏ lon nước ngọt, mẩu
bánh ḿ hay gói xôi đang ăn dỡ
vào người. Những người sắp cầm
súng ra mặt trận cho rằng những anh cảnh sát
được ân huệ ở lại hậu phương
an toàn c̣n họ phải sắp sửa đối diện với
cái chết. Tôi nghỉ rằng trong một xă hội phải
có sự phân công, nhiệm vụ những anh cảnh sát là
giữ an ninh ở hậu phương, thiếu mấy anh
đó cũng không được dù cũng có những sự
chạy chọt để được vào cảnh sát khỏi
đi lính tác chiến.
Đến
Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ, sau khi điểm
danh, chúng tôi được phát chiếu, mùng , mền và các
đồ dùng cần thiết khác rồi được chỉ
định khu ở. Mỗi dăy pḥng ở gồm nhiều
giường sắt hai tầng. Nhóm thầy
giáo chúng tôi ở những dăy pḥng gần nhau. Buổi
chiều, theo tiếng kẻng chúng tôi tập
họp ăn cơm ở nhà bàn. Tôi không thể
nào nuốt trôi chén cơm màu hơi xanh v́ được
thêm vitamin với món cá mối tanh tanh. Tôi đành bỏ
đi và vào câu lạc bộ ăn cơm
sườn. Tôi tự trách sao ḿnh không thể
thích ứng với hoàn cảnh sống mới. Vào
đây tôi vẫn nhớ tới dĩa ḅ kho thơm phức
ở quán Thanh Bạch trên đại lộ Lê Lợi hay tô bún
suông nóng hổi ở nhà hàng Thanh Thế trên đường
Nguyễn Trung Trực ở Sài G̣n hoặc tràng nem nướng
ngon tuyệt của bà bán gánh trước nhà hàng Lạc Viên
ở Trà Vinh.
Buổi tối
các tân binh ngồi quây quần nhau trên giường ca hát hay
đánh bài. Đi đâu họ đều mang theo
cái mền mà trại phát cho ḿnh. Có anh bị mất
cái mền, th́ tiếp sau đó có người khác bị mất
và sự mất mát nầy trở thành dây chuyền. Anh nào bị mất mền th́ sẽ đánh cắp
mền của người nào lơ đễnh. Nếu ai mất mền đi báo cáo với trại
th́ sẽ bị nhốt. Đó là kỷ
luật quân đội. Được
vài người đến trước cho biết chuyện
này nên tôi giữ kỷ chiếc mền của ḿnh, Có anh ngồi
đánh bài nhưng không quên lót chiếc mền dưới
đít ḿnh cho chắc ăn.
Ngày hôm
sau, mọi người được gọi đi khám sức
khoẻ. Một ông bác sĩ và một anh y tá quân y khám từng
anh tân binh trần truồng như nhộng. Anh y tá cân sức
nặng, đo chiều cao và ṿng ngực, c̣n ông bác sĩ th́
nh́n và nắn bóp khắp nơi trên người anh lính mới.
Nếu một người không có bệnh hoạn
ǵ nhưng chỉ số pignet trên 30 th́ được miễn
dịch. Anh Tâm rơi vào trường hợp
đó nên hôm sau anh trả lại trại các đồ dùng
cá nhân được cấp và nhận giấy miễn dịch
ra về. C̣n Hoàng, Tường và tôi ở lại chờ
chuyển về trường bộ binh Thủ Đức.
Vài hôm
sau, người ta đọc danh sách những tân binh
được chuyển lên trường bộ binh Thủ
Đức thụ huấn khóa 27 sĩ quan trừ bị. Tất cả những
người c̣n lại là khóa sinh thặng dư của khóa
27, được trả về đời sống dân sự
chờ đi khóa sau. Tôi và Hoàng nằm
trong số người đó. Tôi đinh
ninh rằng ḿnh sẽ đi khóa 28.
Tôi về
nhà nghỉ ngơi định sau Tết sẽ trở xuống
Trà Vinh. Nhưng trong đêm giao thừa, Việt Cộng bất
chấp lệnh hưu chiến mà hai bên đă giao ước
bất thần tấn công vào một số thành phố và tỉnh
lỵ của Việt Nam Cộng Ḥa. Qua đêm mồng
một, Quan, em kế tôi đi chơi khuya về cho tôi biết
có những tiếng súng nổ chen lẫn với tiếng
pháo ở gần bộ tư lệnh Hải Quân ở Bến
Bạch Đằng. Sáng hôm mồng hai Tết, mọi
người thức dậy trong tiếng súng nổ ở
nhiều nơi trong thủ đô: Dinh Độc Lâp, ṭa
Đại Sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ
Tư Lệnh Cảnh Sát, Bộ Tư Lệnh Hải Quân.,
Ban đầu quân Việt Công ở thế thượng
phong nhờ yếu tố bất ngờ: đa số
các đơn vị của
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ỷ y lệnh hưu chiến
nên đă dễ dăi làm ngơ cho các quân nhân về nhà ăn Tết
với gia đ́nh,
Nhưng dần
đần mọi người t́m cách trở về
đơn vị, tiếp sức với đồng đội
đẩy lui những mũi tấn công của Việt Cộng Chúng phải
co cụm vào một số nơi và quân ta bao vây và cẩn thận
tiêu diệt từng tên. Ở mặt trận
Chợ Lớn, Việt công rút vào ẩn núp trong chùa Ấn
Quang. Do hiếu kỳ tôi theo chân của
toán Biệt Động Quân xem trận chiến tại
đây.
Cuối
cùng Việt Cộng phải tháo chạy ra khỏi thủ
đô để lại số lớn đồng bọn chết
và bị bắt. Tất
cả các mũi tấn công của Việt Cộng vào các tỉnh
lỵ và quận lỵ trên khắp lănh thổ Việt Nam Cộng
Ḥa đều bị đẩy lui chỉ trừ ở cố
đô Huế chúng cố thủ cả tháng trời và đă
thảm sát hơn 3000 người ở đó trước
khi rút lui.
Tháng 4
năm 1968 tôi được gọi vào học khóa 2/68
sĩ quan trừ bị.
Tháng trước, khóa 1/68 đă được
triệu tập và Trần Kim Hoàng đă tham dự khóa
đó.Vậy là sau khóa 27, các khóa kế tiếp được
đặt tên là khoá 1/68. khóa 2/68. khóa 3/68...Với cường độ ác liệt
của chiến tranh, lệnh tổng động viên
được ban hành và hầu như mỗi tháng đều
có một khóa sĩ quan trừ bị. Lối
huấn luyện sĩ quan trừ bị cũng thay đổi.
Thay v́ vào thẳng trường Bộ Binh Thủ Đức,
các khóa sinh phải học giai đoạn 1 cơ bản
quân sự 9 tuần như một người lính tại
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung rồi mới được
chuyển lên trường Bộ Binh Thủ Đức học
giai đoạn 2. Lúc học giai đoạn 1,
chúng tôi được gọi là khóa sinh dự bị sĩ
quan.
Tất cả
khóa sinh khoá 1 được tập trung thành tiểu
đoàn Nguyễn Huệ, c̣n khóa 2 chúng tôi đông hơn
được chia thành 2 tiểu đoàn: tiểu đoàn Trần
B́nh Trọng và tiểu đoàn Gia long. Tôi ở tiểu
đoàn Trần B́nh Trọng và đại đội 3,
sĩ quan cán bộ là trung úy B́nh mà mọi người gọi
là B́nh ngọng. Đại đội được xếp
thứ tự theo chiều cao của từng
người. Tôi là người cao nhứt trong đại
đội đáng lẽ mang danh số 1 nhưng ǵ anh
Đàm, một người tốt nghiệp Cao Học Hành
Chánh được cử làm khóa sinh đại đội
trưởng nên anh ta mang danh số 1, c̣n tôi mang danh số
2. Anh và tôi ngủ chung một cái giường
sắt hai tầng, anh ở tầng trên c̣n tôi ở tầng
dưới. Trong đại
đội tôi có một anh bạn đồng nghiệp là
Nguyễn Thành Hải, tốt nghiệp cùng khóa 65 với
tôi, dạy môn quốc văn ở trường trung học
Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá. Anh ấy nhỏ con nên
đứng hàng cuối cùng trong khi tôi đứng ở hàng
đầu.
Công việc
đầu tiên, sau khi được phát quân trang và quân dụng,
của các khóa sinh là lên kho vũ khí lănh súng. V́ một nửa quân
số có công tác khác nên tôi nằm trong một nửa quân số
c̣n lại phải vác một ḿnh hai khẩu garant M1 nặng
trĩu. Về tới doanh trại, tôi gần
như muốn xỉu. Rồi th́ 9 tuần
huấn luyện quân sự của chúng tôi bắt đầu.
Mỗi môn học: tác xạ, tháo ráp súng, lựu đạn,
ḿn claymore, địa h́nh, ḅ hỏa lực, đoạn
đường chiến binh, cận chiến, hành quân dă trại,
trực thăng vận, tác chiến trong thành phố...
được một sĩ quan huấn luyện viên giảng
dạy và một hoặc hai hạ sĩ quan biểu diễn.
Khi vừa chấm dứt bài học th́ anh hạ sĩ quan
biểu diễn lôi trong thùng đạn đại liên trên xe honda ra
nào là nước ngọt, xôi, kẹo, bánh bán cho khóa sinh chúng
tôi ăn uống. Mỗi khi một cá nhân hay tập thể
vi phạm quân kỷ th́ bị phạt nhảy xổm hoặc
hít đất,
nhưng chúng tôi sợ nhứt là bị phạt"chà
láng"
•
Số
là phía trước doanh trại của mỗi đại
đội có một giao thông hào đă được các
khoá sinh nào trước đó đào sẵn để pḥng
thủ. Khóa sinh bị phat phải dùng ga men dùng đựng
thức ăn của ḿnh chà thành của
giao thông hào láng coóng như xi măng mới được
tha. Một ngày tháng 5 năm 1968, không nhớ tôi vi phạm kỷ
luật ǵ mà bị phạt chà láng giao thông hào trước
đại đội tôi, Lúc đó nhằm đợt tổng
công kích đợt 2 của Việt Cộng vào Sài G̣n, tôi
đứng dưới giao thông hào vừa chà láng vừa
nh́n về hướng Sài G̣n trông thấy những cột
khói bốc cao ngất trời mà lo lắng không biết gia
đ́nh ḿnh có được b́nh an không v́ có tin Việt Cộng
về tới Tân Quy Đông , bên kia sông hướng Nhà Bè
đối diện với quận 4 và đang giao chiến
với quân ta.
Chúng tôi
đang học giữa khóa th́ tất cả khóa sinh 1/68
đàn anh của chúng tôi ở tiểu đoàn Nguyễn Huệ
măn giai đoạn 1 lên đường vào trường bộ binh Thủ
Đức. Trần Kim Hoàng có sang gặp tôi để từ
giả. Đồng thời lúc đó có tin đồn, khóa
chúng tôi sẽ có phân nửa đậu lên trường bộ
binh học sĩ quan và phân nửa rớt sẽ ra Nha Trang học khóa hạ
sĩ quan ở quân trường Đồng Đế. Mọi
người rất hoang mang, lo lắng v́ tin đồn c̣n
cho biết tiêu chuẩn đậu rớt căn cứ vào
điểm môn tác xạ. Riêng tôi, sự lo lắng càng nhiều
hơn v́ bẩm sinh thể lực không bằng những
người khác nên kềm khẩu súng garant không được
chặt chẽ v́ vậy bắn không được chinh
xác
Những
ngày thi cuối khóa tới, tôi không lo môn nào khác chỉ lo môn
tác xạ. Tôi tác xạ bên
cạnh Đàm, khóa sinh đại đội trưởng.
Đàm biết sự lo lắng của tôi nên hứa sẽ
bắn qua bia của tôi, Đúng như anh đă hứa, khi
trông thấy tôi bắn bia trật nhiều quá nên anh đă bắn giúp tôi vài
phát vào bia của tôi. Nhưng tôi vẫn lo lắng
không biết ḿnh có đủ điểm bắn không.
Buổi
tối ngày măn khóa, t́nh h́nh ở hai tiểu đoàn khóa sinh
Trần B́nh Trong và Gia Long rất căng thẳng. Chúng tôi được
lệnh tập trung ngoài sân chờ lệnh. Trung úy B́nh cầm một tờ giấy đọc
tên những khóa sinh được nói là phải mang quân
trang tham dự một cuộc di hành. Những
người không có tên ở lại chờ lệnh. Linh tính cho tôi biết là ai có tên là được đi
học sĩ quan ở trường bộ binh, những
người c̣n lại trong đó có tôi, sẽ đi học
hạ sĩ quan. Sau khi những người may mắn
đi rồi th́ những người xấu số bắt
đầu nổi loạn. Quân cảnh được phái
tới rất đông, Đại tá Lê Ngọc Triển
đích thân xuống trấn an đám loạn
binh nhưng vô hiệu. Cuối cùng, quân cảnh phải áp giải
chúng tôi về trại chuyển tiếp Nguyễn Tri
Phương.
Tại
đây chúng tôi làm một đêm không ngủ và có người
đưa sáng kiến là trút tất cả quân trang trong sac marin bày cả lên giường để
người ta không thể ép buộc chúng tôi di chuyển
được. Gần sáng th́ quân cảnh tiến vào pḥng áp tải
từng người ra xe GMC mặc dù mọi người lấy
muỗng gỏ vào ga men báo động,
Cuối
cùng, chúng tôi cũng bị chở ra phi trường Tân
Sơn Nhứt để đưa ra quân trường
Đồng Đế, Nha Trang.
V́ số khóa sinh qúá đông nên việc chuyên chở ra Nha
Trang kéo dài tới chiều. Sau một giờ
bay, chúng tôi tới thành phố duyên hải. Từ phi
trường gần biển đến quân trường
Đồng Đế, xe chạy qua những
quang cảnh rất đẹp.
Nhưng người buồn, cảnh có vui đâu bao
giờ! Khi xe chạy vào cổng quân trường Hạ
Sĩ Quan, tôi trông thấy bức tượng người
lính bằng đồng
đen gây trong tôi ấn tượng những ngày gian khổ
sắp tới. Trong quân đội, hạ sĩ quan là cầu
nối giữa sĩ quan và binh sĩ và cấp chỉ huy thấp
nhứt nhưng gần nhứt với người lính với
nhiệm vụ tiểu đội trưởng
. Hạ sĩ quan vừa là người
chỉ huy vừa là người trực tiếp chiến
đấu. Do đó việc huấn luyện một hạ
sĩ quan đ̣i hỏi sự khổ công chịu
đưng trong thời gian học tập của khóa sinh.
Trường
sở khang
trang nằm dưới bóng những hàng cây thông, cây bàng
đầy bóng mát. Phía sau trường là một dăy núi chắn
ngang, thấp thoáng bức tượng người chiến
binh đứng trong tư thế thao diễn nghỉ trên
đỉnh núi Ḥn Khô, tạo thành một khung cảnh thật
hùng tráng. V́ dăy núi trông từ xa như h́nh một thiếu nữ
năm xỏa tóc nên sau này khi vào học ở đây tôi
được nghe truyền tụng hai câu thơ mà ai
đó đă đặt:
Anh đứng
ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm
xỏa tóc đơi chờ anh.
Sau bữa
cơm trưa, chúng tôi được sắp xếp chỗ
ở, tắm giặt., Chiều hôm đó chúng tôi tập họp
ở Vũ Đ́nh Trường, để nghe Đại
Tá Lê Văn Nhật, Chỉ Huy Trưởng Trường
nói chuyện. Đại Tá Nhật nhiệt liệt chào mừng
chúng tôi, những tân khóa sinh Hạ Sĩ Quan bằng một
bản nhạc hùng do Ban Quân Nhạc của Trường
ḥa tấu . Đại Tá Nhật cho biết
trường hợp của chúng tôi đang được
Tổng Cục Quân Huấn và Bộ Tổng Tham Mưu cứu
xét, và ông tin tưởng rằng đa số chúng tôi sẽ
tiếp tục theo học khóa Sĩ Quan Trừ Bị tại
đây. Buổi nói chuyện của vị Đại Tá Chỉ
Huy Trưởng gây được nhiểu hy vọng cho
chúng tôi .
Vài hôm sau chúng
tôi được gọi lên đại giảng đường
của quân trường để nghe cựu trung tướng
Tôn Thất Đính, dân biểu trưởng khối quốc
pḥng hạ viện nói chuyện . Những
tràng vổ tay vang lên khi tướng
Đính loan báo Quốc Hội đă can thiệp để vớt
điểm bắn cho chúng tôi. Tổng cuộc quân huấn đă đồng
ư chỉ đánh Prớt một số khóa sinh tương
đương quân số một đại đội phải
học khóa hạ sĩ quan, số khóa sinh c̣n lại
được học khóa sĩ quan,
Ngày hôm sau,
chúng tôi được phân phối thành 5 đại đội:
đại đội 334 học khóa hạ sĩ quan, 4
đại đội cón lại là 335, 336, 337 và 338 học
khóa sĩ quan. Tôi được xếp vào đại độ
335 mà sĩ quan cán bộ đại đội trưởng
là trung úy Xuân. Tôi có hai người bạn đồng nghiệp
là anh Nguyễn Thành Hải, dạy Quốc Văn và anh Nguyễn
Thành Tương, dạy Lư Hóa bị xếp vào đại đội
334. Nhờ vậy, sau năm 75 hai anh khỏi
phải đi tù cải tạo.
Việc
giải quyết trường hợp của chúng tôi tạo
tiền lệ cho các khóa sinh viên sĩ quan trừ bị sau
này. Không c̣n có việc
đánh rớt khóa sinh để buộc họ phải theo
học khóa hạ sĩ quan, mà tất cả đều học
khóa sĩ quan, xen kẻ một khóa lẻ học ở
trường bộ binh là một khóa chẵn mà phân nửa
học ở trường bộ binh, phân nửa c̣n lại
học ở trường Đồng Đế..
Bốn đại
đội sinh viên sĩ quan chúng tôi lập thành tiểu
đoàn 1 Sinh Viên Sĩ Quan do một vị thiếu tá làm
sĩ quan cán bộ..Bốn tuần huấn nhục
bắt đầu. Đi đâu từ
hai người trở lên đều phải đếm
bước chạy. Trước khi vào nhà bàn để
ăn th́ đại đội phải
chạy vài ṿng quanh vũ đ́nh trường. Ng̣ai ra những
bài học tuột núi, đi dây tử thần, vượt
sông, tấn công lên đồi...là những bài học cam go của
chúng tôi.
Ngày chuẩn
bị gắn alpha, chúng tôi phải làm một cuộc hành
quân chinh phục Ḥn Khô.
Tôi phải vác cây trung liên Bar leo núi. Khi lên tới đỉnh Ḥn Khô th́ tôi suưt ngất xỉu
v́ kiệt sức.Tối đó, tiểu đoàn1 SVSQ làm lễ
gắn alpha cho các khóa sinh."Quỳ xuống các khóa sinh dự
bị sĩ quan, Đứng lên các sinh viên sĩ quan".
Khẩu lệnh đó cùng bản Hồn Tử Sĩ vang
lên trang nghiêm làm tôi lạnh người nghỉ tới những
tháng ngày xông pha trong ṿng lửa đạn
sắp tới.
Tiếp tục
những ngày huấn luyện của 12 tuần c̣n lại,
mỗi ngày chúng tôi phải chạy đều bước
và hát những bản hùng ca theo tiếng
hô một hai của sinh viên lcán bộ đại đội
trưởng mỗi khi đi học hay đi ăn:
"Ngày bao
hùng binh tiến lên.l
Bờ cơi vang
lừng câu quyết chiến ..."
"
Đường trường
xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng
binh trong sương lướt gió reo vang..,
"
"Đây
phù hiệu trường Hạ Sĩ Quan
Ḷ luyện
thép tân tiến nhứt Việt Nam..."
"Trường
Hạ Sĩ Quan nung chí người trai,
Một trời
thép súng nở hoa tươi cười..."
Chúng tôi chỉ
được thoải mái khi đi ứng chiến ban
đêm. Có đêm chúng tôi giăng lều nằm
ở nhà thủy tọa, lắng nghe tiếng sóng biển
ŕ rào. Có đêm chúng tôi nằm trên đồi
Rù Ŕ để làm mồi cho muỗi cắn.
Cuối
tuần, chúng tôi được vài giờ phép để ra
thành phố Nha Trang.
Có người th́ vào quán cà phê Thiện ở
đường Độc Lập để trồng cây si
cô ngồi caisse, người Sài G̣n đẹp như tranh vẽ.
Có người đi xả xú báp ở khu Phước Hải . Có người ra bờ
biển nh́n sóng vỗ bờ.
Rồi
th́ khóa học cũng chấm dứt. Khóa 2/68 sĩ quan trừ
bị Đồng Đế măn khóa tháng 11 năm 1968.
Mọi người theo hạng thứ của kết qủa
thi măn khóa lần
lượt lên chọn đơn vị. Đa số về
Địa Phương Quân, một số ít về các
đơn vị chuyên môn và Biệt Động Quân, Tôi và Âu
Dương Ư , người bạn
đứng cạnh tôi cũng vác trung liên như tôi trong hàng
đầu của Đại Đội. chọn
về Sư Đoàn 9. Khẩu lệnh để hàng quân
chào kính cấp chỉ huy không giống các quân trường
khác:"Nghiêm! Súng chào..bắt. Trung liên lên vai."
Đường
bộ từ Nha Trang về Sài G̣n lúc đó không an ninh nên tôi
ra phi trường Nha Trang mua vé của Air Vietnam để về
nhà. Tôi được một tuần nghỉ phép trước
khi tŕnh diện đơn vị. Tôi cùng Âu Dương Ư đi xe
đ̣ xuống Sa Đéc, nơi đóng bản doanh của Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Anh Bạch Ngọc
Ḥa, bạn học của tôi ở
trường Nguyễn Văn Khuê gởi tôi và Ư ở tạm
nhà đại úy Dũng , trưởng pḥng 1 của Sư
Đoàn 9, là em họ của anh. Ḥa đang học khóa sĩ
quan không quân chung với Quan, em kế tôi.
Sau này khi sang Mỹ học bay, Ḥa rớt về bay nên về
Việt Nam sớm hơn và học khóa không phi hành. Em tôi ở
lại học tiếp khóa trực thăng , khi về
nước làm hoa tiêu trực thăng ở sư đoàn 3
không quân và bị bắn rớt máy bay mất tích trong mặt
trận An Lộc năm 1972. Thế mới biết
mỗi người có số phận khác nhau.
Vài bữa
sau, tôi và Ư tŕnh diện đại tá Trần Bá Di, tư
lệnh sư đoàn 9 để được bổ nhiệm
về đơn vị.
Ư được đưa về trung đoàn 15, vùng
trách nhiệm là Cao Lănh và Châu
Đốc, c̣n tôi về trung đoàn 16, hoạt động ở Vĩnh Long và Sa
Đéc. Tôi chia tay Ư đi Vĩnh Long
nhận đơn vị. Sau này, tôi được tin Ư
bị thương ở bụng và được về
làm tại bộ tư lệnh quân khu 4 ở Cần
Thơ.
Bộ chỉ
huy trung đoàn 16 đóng ở ngả tư Long Hồ, nằm
bên nầy sông phía Vĩnh Long cách thị xă Vĩnh Long
hơn 10km. Qua cầu, phía bên kia sông là chợ Ngả Tư,
đối diện chợ bên kia đường, sát mé sông
là đồn cảnh sát của một ông thượng
sĩ nổi tiếng sát cộng mà tôi quên tên. Ông có một chiếc tàu sắt nhỏ nhưng có
trang bị ống phóng hỏa tiễn. Ông
đă tiêu diệt rất nhiều Việt Cộng và chúng
đă treo giá đắt cái đầu của ông. Về
sau tôi được nghe tin ông tử trận v́ bị Việt
Cộng phục kich..
Trung
đoàn trưởng trung đoàn 16 là trung tá Huỳnh Văn
Chính. Sau này ông lên đại tá và về làm tỉnh
trưởng Rạch Giá. Năm 2015, tôi sang Houston dự
buổi tiệc hội ngộ đồng hương Trà
Vinh th́ có gặp đại tá Chính ở đó. Ông vẫn c̣n sỏi dù đă cao tuổi.
Ngày hôm
sau, tôi được đưa về tiểu đoàn 3, hậu
cứ ở xă Phước Hậu. Trên tỉnh lộ từ Vĩnh Long đi Trà Vinh, khoảng nửa đường
Vĩnh Long và ngả tư Long Hồ có một ngả
ba tên là cua Long Hồ, nếu
quẹo mặt người ta
đi vài trăm thước sễ tới chỗ
đóng quân của tiểu đoàn 3. Tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 3 là đại úy Sầm
Long, tiểu đoàn phó là đại úy Bùi Văn Ba. Ông Ba sau lên làm tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 3 thay đại úy Long và sau cùng ông là quận trưởng
kiêm chi khu trưởng Vũng Liêm. Sau
1975, Việt Cộng đă trả thù ông Ba bằng cách cột
đá vào người ông quăng xuống sông.
Đại úy
Long cho tôi về đại đội 3 mà đại đội
trưởng là thiếu úy Trụ, nguyên là một giáo viên tiểu
học ở Mỹ Tho bị động viên, đại
đội phó là chuẩn úy Cao Đ́nh Đại cùng khóa
2/68 với tôi nhưng học ở trường bộ binh
Thủ Đức, măn khóa trước tôi vài tuần nên về
đơn vị trước tôi. Sau này khi nói chuyện với
Đại tôi mới biết anh của Đại là Cao
Đ́nh Vưu tức là nhà văn Cao Thoại Châu, giáo sư
Quốc Văn trường Nguyễn Đ́nh Chiểu và chị
dâu là Dương Thị Lớn, hiệu trưởng
trường nữ trung học Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho, về
sau làm thanh tra ở Nha Trung Học.
Tôi tham dự
cuộc hành quân đầu tiên bằng trực thăng vận
vào quận Tam B́nh, một quận mất an ninh nhứt của
tỉnh Vĩnh Long, đó là nguyên quán của người vợ
tương lai của tôi sau này. Khi tôi vừa
nhảy từ trực thăng xuống th́ tôi thấy một
toán Việt Cộng bỏ chạy tán loạn từ những
đống rơm vào vườn dừa phía sau chúng.
Chúng tôi đuổi theo nổ súng, Trận
đánh đó giúp chi khu Tam B́nh giải tỏa được
áp lực nặng nề của địch trước
đó.
Rồi,
tôi quen đần với những lệnh hành quân bất ngờ
từ trung đoàn đưa xuống tiểu đoàn của
tôi. Thường,
mỗi lần hành quân trong phạm vi tỉnh Vĩnh Long th́
quân xa chở chúng tôi từ hậu cứ của tiểu
đoàn đến Cầu Mới, ở đó chúng tôi chờ
trực thăng đến bốc đi. Nếu hành quân
tăng cường cho trung đoàn 14 ở Trà Vinh th́ chúng
tôi chờ trực thăng ở Càng Long c̣n nếu hành quân ở
Sa Đéc th́ chờ trực thăng ở xă Trường An, trên quốc lộ 1 giữa bến Bắc Mỹ Thuận
và thị xă Vĩnh Long. Hành quân xong, tiểu đoàn tôi t́m
đi bộ ra quốc lộ hay tỉnh lộ để quân xa chở trở về
căn cứ. Thời gian hành quân thường
kéo dài hai ba ngày. Bởi vậy chúng tôi
ước ao ḿnh là địa phương quân sướng
hơn, chỉ đi hành quân trong ngày.
Lần hành
quân ở Nha Mân, Sa đéc để lại cho tôi một kỷ
niệm khó quên. Đêm đóng quân tại đó, tôi ngủ
trên một chiếc vơng giăng giữa hai cây có tấm
đấp nhưng muỗi ở đây chắc là có cây kim chích dài hơn muỗi nơi khác nên chúng
chích tôi xuyên qua tấm đấp làm suốt đêm tôi không
thể chợp mắt.
Ở miền
tây, chiến trường không ác liệt như miền
đông và miền trung nhưng đi hành quân vất vả
hơn nhiều v́ phải lội śnh, có nơi śnh lầy
cao lên khỏi đầu gối, Chúng tôi lội khoảng
vài trăm thước th́ đă mệt nhoài. Nếu lúc đó gặp
địch th́ rất là nguy hiểm, chúng tôi sẽ là mồi
ngon cho chúng tác xạ.
Tôi làm trung
đội trưởng nên có một lính truyền tin và một
lính tà lọt đi theo. Anh lính truyền
tin mang theo máy PRC 10 để liên lạc
với đại đội, c̣n thằng lính tà lọt
để lo nấu nướng, giăng vơng và đào hầm
cho tôi. Thiếu úy Trụ đại đội
trưởng có vẻ không thích tôi v́ anh ta biết trong ngành
giáo dục ngạch trật anh ta kém tôi nên có ư muốn
đ́ tôi. Nhưng tôi cũng thuộc loại
lính ba gai nên đâu ngán anh ta. Có một lần
đại đội tôi đánh đuổi bọn Việt
Cộng chạy vào rừng dừa, anh ta bảo tôi dẫn
trung đội vào vào rừng dừa truy kích chúng. Tôi từ
chối và nói:"Thiếu úy muốn truy kích chúng th́ đi,
tôi không làm v́ chỉ có một trung đội tôi vào đó
nướng quân sao?". Anh ta giận lắm
nhưng không làm ǵ được tôi.
Đêm Noel
năm 1968, tiểu đoàn tôi nằm ngoài đồng án binh bất động theo lệnh hưu
chiến nhưng sẵn sàng tác chiến nếu địch
vi phạm lệnh hưu chiến. Tôi năm trên vơng kế
bên hai tay cố vấn Mỹ, một trắng,
một đen. Tôi chỉ lên mặt trăng tṛn và nói với
hai người cố vấn Mỹ: "Không lâu, người
của mấy ông sẽ lên trên đó." Hai người cố
vấn này thường nói với tôi:" Trong tiểu
đoàn này, chúng tôi chỉ nói chuyện được với
ông".
Những ngày
không hành quân tôi và Đại lấy xe
honda chạy ra thị xă Vĩnh Long chơi. Chúng tôi thường
ăn uống ở trên lầu nhà hàng
Bungalo cạnh bờ sông. Những anh quân cảnh tiểu
khu Vĩnh Long đi kiểm soát trông thấy chúng tôi th́
lơ đi như không thấy. Họ không muốn
đụng chạm với lính tác chiến.
Đầu
năm 1969, tiểu đoàn tôi mở một cuộc hành quân
trong quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long để giải
tỏa áp lực địch chung quanh đồn địa
phương quân Giáp Nước và đóng lại đó
để yểm trợ việc
xây cất lại đồn sau khi đồn bị Việt
Cộng pháo kích và tấn công làm thiệt hại nặng nề.
Trung đội tôi đóng trước một căn nhà mà
người ta đă bỏ đi. Theo chiến
thuật tôi ra lệnh cho trung đội không ai dược
ở trong nhà. Tất cả chúng tôi ra
ngoài sân cạnh mé sông. Thằng tà lọt
của tôi đă đào cho tôi, nó và thằng truyền tin mội
cái hầm lớn đủ cho ba người.
Thằng
mang máy cho tôi biết, đám tiền đồn báo cáo địch
đang kéo tới rất đông và họ đă xin rút về
và sẽ vượt qua sông để về pḥng tuyến của. Ḿnh. Một lát sau tôi nghe tiếng người lội
nước về phía ḿnh. Tôi dặn lính
của tôi không được khai hỏa. Không bao lâu,
súng địch từ bên kia sông bắn
qua dữ dội. Bên ta đáp trả tức
khắc. Tôi vẫn ngồi trên cái nón sắt cạnh miệng hầm, tay
cầm cây colt.
Bỗng
tôi cảm thấy nóng rát ở vai và ở thắt lưng
và ngất đi nhưng vẫn c̣n nghe một tiếng nổ
lớn. Tôi tỉnh lại ngay sau đó và thấy ḿnh ngồi
bẹp dưới hầm bên cạnh thằng mang máy.
Ở phía trên có tiếng ai đó rên la. Thằng
mang máy nói với tôi: " Em bị trúng
đạn rồi chuẩn úy ơi, chuẩn úy xem mặt em có sao không?". Tôi rọi đèn pin
soi mặt nó chỉ thấy bị trầy trụa sơ
sài. Tôi an ủi nó:" Mày chỉ bị
thương nhẹ thôi". Tôi rờ vào vai
và lung ḿnh thấy có máu. Th́ ra Việt Cộng đă thổi
một trái B40 trúng trụ bàn ông thiên cạnh hầm tôi làm
thằng Ê mang súng M79 đứng bên phải tôi lănh đủ
một mảnh ngay đầu đang rên la. C̣n
tôi và thằng máy ngồi trên miệng hầm bị những
mănh nhỏ và sức ép của B40 đẩy chúng tôi văng
xuống hầm. Y tá đại đội chạy lại
băng bó cho chúng tôi.
Hai bên đấu
pháo với nhau một hồi rồi tiếng súng im bặt.
Địch và ta không ai dám mạo hiểm sang sông ban đêm
nên có lẽ địch đă rút lui. Trời dần sáng,
đại úy Bùi văn Ba (thay cho đại uư Sầm Long),
tiểu đoàn trưởng cũng bị thương nên
tiểu đ̣an gọi trực thăng tải thương
chở đại úy Ba, tôi và thằng Ê về
quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ.
Đến
pḥng cấp cứu quân y viện Phan Thanh Giản, tôi
được nằm trên giường, c̣n thằng Ê vẫn
nằm trên cáng cứu thương chờ xếp loại. Tôi được
giữ lại tại pḥng cấp cứu chờ xem các vết
thương có chạm đến nội tạng hay không,
c̣n Ê được đưa ngay vào pḥng mỗ. Sáng hôm sau, khi thức dậy tôi ṭ ṃ xem sổ trực
th́ thấy ghi binh nhứt Nguyễn Văn Ê từ trần
sau khi mỗ đầu. Tôi không ngạc nhiên v́ ngoài mặt
trận nếu một binh sĩ bị thương ở
đầu th́ phần chắc khi mỗ sẽ chết. Kỷ thuật giải phẫu mở hộp sọ
lúc đó có xác xuất thành công rất nhỏ.
Về
phần tôi, người ta thấy bụng tôi không bị
căng cứng chứng tỏ nhưng mảnh B40 nằm
trong người tôi không chạm đến một cơ quan
nào của nội tạng nên tôi được chuyển xuống
khu vực ngoại khoa.
Ở đây, mỗi sáng y tá xuống xức thuốc,
thay băng cho tôi. Trong thời gian tôi ở quân y viện
Phan Thanh Giản, tôi gặp anh Tăng Kịa, dạy chung với tôi ở trường trung học
Vĩnh B́nh cũng nằm điều trị ở đây.
Một
buổi chiều, đang ngồi ngoài sân bệnh viện
xem phim th́ có loa gọi tên tôi lên pḥng tiếp tân gặp
người nhà đến thăm. Th́ ra là má tôi. Má
tôi kể rằng đêm qua bà không ngủ được mà
trong ḷng cứ lo âu, đến sáng bà đi xe đ̣ xuống
đơn vị tôi..Tại đây bà hỏi
ông thượng sĩ
thường vụ muốn gặp con bà. Ban
đầu, ông thượng sĩ nói dối là tôi theo tiểu đoàn hành quân chưa về, sau
đó thấy vẻ thiểu năo của má tôi ông nói thật
là tôi bị thương đang nằm tại quân y viện
Phan Thanh Giản, Cần Thơ. V́ vậy bà xuống
đây. Tôi cho mẹ tôi biết rằng tôi chỉ bị
thương nhẹ để bà bớt lo.
Sau
hơn một tuần điều trị ở bệnh viện
Phan Thanh Giản, tôi được cho về. Bệnh viên cho tôi 21 ngày phép, sau
đó sẽ được tái khám tại đơn vị.
Tôi đi xe đ̣ qua Vĩnh Long rồi
vào phi trường xin quá giang máy bay về Sài G̣n. Tôi chờ
nhiều tiếng đồng hồ, các máy bay của Mỹ
không c̣n chỗ, đến trưa tôi thấy có một chiếc
C123 của không quân đáp xuống, Hai anh pilot rất ga
lăng, đưa tay đỡ các cô ca sĩ trong biệt đoàn văn nghệ
trung ương xuống trong đó tôi nhận ra có nữ ca
sĩ Giao Linh. Khi đoàn nghệ sĩ lên xe jeep đi rồi tôi tiến
tới hai anh hoa tiêu xin quá giang về Sài G̣n không quên cho biết
tôi đă bị thương và vừa xuất viện. Họ
đồng ư và tôi leo lên phi cơ.
Phi cơ bay
lên và đáp xuống phi trường Trảng Lớn, Tây
Ninh để đón một đơn vị biệt cách dù
về Sài G̣n. 6 năm sau, cuối
tháng 6 năm 1975 tôi là nột trong nhóm tù cải tạo bị
đưa đến đây giam giữ. Tôi theo theo hai anh hoa
tiêu xuống đất, trông thấy các anh biệt cách dù quân phục
đầy bụi đỏ đang đứng theo hàng
ngũ nghiêm trang. Một lát sau hai anh hoa tiêu nói
với tôi, đơn vị này không về Sài G̣n v́ vứa
có lệnh hành quân mới. Thế là chiếc phi cơ
to lớn với hai hoa tiêu và một hành khách duy nhứt là
tôi cất cánh bay về phi trường Tân Sơn Nhứt.
Vè Sài G̣n nghỉ 21 ngày
xong, tôi về ban quân y trung đoàn 16 tŕnh diện để
tái khám. Trung úy bác sĩ quân y cho phép tôi nghỉ
thêm 21 ngày khi tôi cho ông biết tôi đă có sự vụ lệnh
biệt phái về bộ Giáo Dục dạy học lại.
Ông ta nói:" Tôi cho ông nghỉ thêm để chờ sự
vụ lệnh biệt phái xuống tới đơn vị
ông để ông về đời sống dân sự an toàn. Có nhiều người sắp nhận sự vụ
lệnh biệt phái mà đi vào hành quân bị ngủm củ
tỏi đó." Tôi cám ơn ông bác
sĩ tốt bụng.
Tôi trở về
hậu cứ tiểu đoàn cất quân trang và ra thị xă
Vĩnh Long ở chơi với các bạn đồng nghiệp
dạy ở trường Tống Phước Hiệp
để chờ sự vụ lệnh đến
đơn vị. Khi nhân được sự
vụ lệnh tôi về Sài G̣n tŕnh diện bộ Giáo Dục.
Ở đây trả tôi về trường trung học
Vĩnh B́nh. Sẵn dịp tới bộ Giáo Dục,
tôi nộp đơn xin thuyên chuyển về những trường
gần nhà: trung học Ngô Quyền, Biên Ḥa, trung học Nhà
Bè, Gia Định và một trường nào đó gần
Sài G̣n mà tôi đă quên tên.
Tôi xuống
Trà Vinh dạy nốt những tháng cuối của niên khóa
1968-1969. Trong 3 tháng hè năm 1969 tôi đi gác thi và chấm
thi. Đầu niên khóa 1969-1970 tôi trở
về Trà Vinh dạy học không bao lâu th́ có sự vụ lệnh
thuyên chuyển về trung học Ngô Quyền, Biên Ḥa.
Tôi về Biên
Ḥa dạy được hai niên khóa 1969-1970 và 1970-1971 th́
đến cuối năm 1971 tôi bị dính liếu vào một
vụ xô xát giữa tôi và một vài người bạn với
một chính trị gia có nhiều thế lực nên bị
trả về bộ Quốc Pḥng. Hôm tŕnh diện ở
pḥng quản trị Bộ Tổng Tham Mưu tôi được
cho chọn một đơn vị trong số các tiểu
khu và sư đoàn. Tôi chọn về tiểu
khu Biên Ḥa. Hiệu trưởng trường
Ngô Quyền lúc bấy giờ là ông Phạm Đức Bảo,
ông ấy dẫn tôi vào gặp trung tá Thành, trưởng
pḥng 3 tiểu khu gởi gấm. Tôi được
đưa về đại đội 3/463 địa
phương quân đóng tại cầu Đồng Nai, trên
xa lộ Sài G̣n-Biên Ḥa
Đại
đội trưởng đại đội 3/463 là đại
úy Đỗ Văn Nhuận, đại đội phó là thiếu
úy Phong cùng khóa 2/68 với tôi nhưng học ở Thủ
Đức và hai thiếu úy: Hoàng khóa 3/68 và Phước khóa
sau nữa. Đại đội tôi chia nhau đóng hai bên
đầu cầu: bộ chỉ huy nằm về phía Sài
G̣n nên danh hiệu truyền tin là Sài G̣n. Bên kia cầu về
phía Tam Hiệp có khoảng một trung đội đóng ở
đó danh hiệu truyền tin là Cogido v́ có nhà máy giấy
Cogido ở phía đó. Tôi về không bao lâu th́
thiếu úy Phong được đổi về tiểu
khu. Trong số 3 sĩ quan c̣n lại, tôi
thâm niên hơn nên được cử làm đại đội
phó. Tháng 4 năm 1972 đúng 2 năm sau ngày mang lon thiếu
úy, tôi được tự động lên trung úy.
Trách nhiệm
chính của đại đội tôi là ǵn giữ an ninh cho cây cầu chiến lược Đồng
Nai này v́ đây là cửa ngỏ của thủ đô nếu
cây cầu này thất thủ có nghỉa là ta đă bỏ ngỏ
cho địch tiến vào Sài G̣n. Phía đầu cầu bên
Sài G̣n doanh trại của đại đội tiếp
giáp bên phải với xă Long B́nh thuộc quận Thủ Đức, tỉnh
Gia Đ́nh và bên trái là xă Tân Vạn, tỉnh Biên Ḥa. Phía bên kia cầu, bên trái là một trung đội của
chúng tôi, bên phải là Bộ Chỉ Huy Vùng 3 Sông Ng̣i của
Hải Quân. Phía dưới cầu, có một hành lang đi từ đầu cầu bên này sang
đầu cầu bên kia ngang qua các chân cầu. Ở mỗi
chân cầu, hành lang được mở
rộng ra đủ cho 3 người lính ngủ và canh gác ở
đó ban đêm. Ở ṿng rào của
đại đội nhứt là phía giáp với xă Long B́nh đặt
những vọng gác, đây là phía nặng nhứt về mặt
an ninh v́ ban đêm Việt cộng thường ṃ về thu
thuế các ḷ gạch ở đây. Dưới
cầu lúc nào cũng có một chiếc giang thuyền nằm
yểm trợ cho đại đội chúng tôi.
Quen tác phong ở
đơn vị tác chiến, hàng đêm tôi thường
đi tuần tra các vọng gác quanh chu vi
pḥng thủ. Do đo tôi khám phá sự sơ hở ở các vọng gác, Có nhiều
lính gác ngủ trong phiên trực của họ. Tôi cho họ ăn vài gậy để không quên nhiệm vụ.
Ngủ gục khi gác nhiều nhứt là thằng Năm,
đêm nào nó cũng uống rượu say mèm rồi ngủ
trong phiên gác. Nó là thằng bị ăn
đ̣n của tôi nhiều nhứt. Nhưng nó
không oán tôi, mỗi lần câu được nhiều tôm th́
đem bán cho tôi để tôi nhậu với các bạn
sĩ quan đồng đội.
Nhưng
tôi không làm cho thằng Năm bỏ cái thói quen nhậu nhẹt
trước phiên gác của nó.
Hậu quả của thói quen này đă làm nó mất
mạng. Một đêm, đang ngủ
tôi nghe một tiếng nổ lớn phía dưới cầu,
tôi ngồi choàng dậy, chụp cây colt để ở
đầu giường mở cửa chạy ra ngoài.
Pḥng ngủ tôi là pḥng của cố vấn Mỹ để
lại nằm ở trên đồi, tôi nh́n xuống dưới
thấy đông người dứng nhốn nháo trước
sân văn pḥng đại đội.. Tôi chạy xuống dưới. Trung sĩ Thêm thường vụ đại đội
cho biết là tiếng nổ phát ra ở vọng gác chân cầu
giữa. Đại úy Nhuận cho ca nô chở
một toán lính ra đó xem sao. Một lát
sau, ca nô chạy vào và thằng lái ca nô gọi y tá đem hai
băng ca xuống mé sông. Người ta khiêng hai cái
băng ca để
giữa sân. Thăng Năm nằm bất
động trên một chiếc băng ca, Trên chiếc
băng ca thứ hai, thằng Chẩy đang oằn oại.
Thằng lái ca nô nói, theo thằng thứ ba gác chung một
chân cầu cho biết hồi hôm thằng Năm nhậu
say, đến phiên gác th́ nó ngủ vùi, khi thức dậy nó
rút chốt trái lựu đạn MK3 định ra mé sông liệng
xuống để đề pḥng đặc công Việt Cộng
đặt ḿn phá cầu. Khi bước ngang chiếc vơng của
thằng Chẩy, nó bị vấp té nên buông tay
làm lưu đạn phát nổ. Năm chết
tại chỗ và thằng Chẩy bị thương ở
hai chân. Đại úy cho thằng Lư truyền tin báo cáo
nội vụ cho tiểu khu và cho tài xế đại đội
lấy xe dodge 4 chở Năm và Chẩy
đi bệnh viện.
Mỗi sáng,
tôi cho tập họp đại đội trong sân để
các trung đội báo cáo t́nh h́nh và quân số. Xong tôi cho trung
sĩ Thêm, thương vụ đại
đội phân công tác cho các trung đội. Thường
th́ nhiệm vụ chính của chúng tôi là canh gác cầu.
Thỉnh thoảng, trên tiểu khu ra lệnh cho đại
đội tôi cử một sĩ quan dẫn một trung
đội lên xe GMC của tiểu khu, đi hộ tống
đoàn quân xa chở tân binh đi thụ huấn ở quân
trường Vạn Kiếp, hay đi tiếp tế các chi
khu, hoặc đi lănh đạn ở căn cứ Long B́nh
hay thành Tuy Hạ. Tôi và các sĩ quan trong đại đội
thay phiên nhau dắt lính đi. C̣n nếu không có công tác gi th́
tôi xuống câu lạc bộ của đại đội
sát mé sông uống cà phê, ăn hủ tíu
hay đánh bi da. Hạ sĩ Lư và đại úy Nhuận là
hai tay đánh bi da rất cừ. Tôi là tay
đánh bi da thuộc hạng xoàng nhưng nhờ hạ
sĩ Lư mách nước nên tôi thường thắng thượng
sĩ Lộc
và thiếu úy Tuấn, mới đổi về đại
đội, trong những trận đánh cá độ uống
bia.
Một
đêm, tôi vào quán nhậu ở xă Tân Vạn của một
ông thượng sĩ làm ở Trung Tâm Quản Trị Trung
Ương ở Sài G̣n.
Rượu và lời ra, tôi bị một
đám người làm việc ở văn pḥng xă Tân Vạn
gây sự. Thế cô, tôi lấy xe lambtretta chạy về
đại đội Qua khỏi cầu Bà Lồ, ngang một
vọng gác của nghĩa quân Tân Vạn, tôi v́ uống nhiều
bia nên mất thăng bằng ngă xe, Mấy anh lính nghĩa
quân biết mặt tôi chạy ra đở xe tôi lên. Khi chạy
về đại đội, tôi khám phá ra rằng ḿnh đă
mất khâu súng colt. Tôi nghi là cái đám nhậu hồi năy thừa
lúc tôi say nên lấy súng của tôi. Tôi gọi ba thằng
lính, tôi chở một thằng trên xe lambretta
của tôi, hai thằng kia đèo nhau trên một chiếc xe
honda. Chúng tôi trở lại quán nhậu mang theo
3 khẩu M16.
Tới
quán, tôi gọi thượng sĩ chủ quán ra hỏi
đám người ở xă Tân Vạn đâu rồi. Bọn người đó thấy
tôi trở lại với lính và súng ống, họ hoảng
hốt chạy ra cửa sau dông mất. Tôi và
mấy đệ tử trở về đại đội. Nhưng khi đến
cầu Bà Lồ th́ nghĩa quân gác ở đây đă kéo dây
thép gai chặn đường. Th́ ra, xă
trưởng Nguyễn Thanh Đ. đă ra lệnh cho toán
nghĩa quân ở cầu Bà Lồ chặn không cho chúng tôi về
đại đội. Tôi ra lệnh mọi người
xuống xe và núp vào tường nhà dân ở
gần đó chỉa súng về hướng trụ sở
xă Tân Vạn và cầu Bà Lồ.
Tôi lấy súng của một thằng lính bắn chỉ
thiên và gọi toán nghĩa quân ở cầu Bà Lồ kéo hàng
rào kẽrm gai để chúng tôi qua cầu. Nhưng
toán nghĩa quân ở đây không động tĩnh ǵ hết.
Tôi định cho bắn vào chốt canh của
cầu th́ thấy có một tên nghĩa quân bước ra
kéo hàng rào qua một bên. Chúng tôi lên xe
chạy về đại đội. Đại úy Nhuận
hầm hầm đứng chờ tôi ở cửa văn
pḥng, Thấy tôi ông nói: "Ông làm ǵ mà gây sự với xă
Tân Vạn? Nhờ ông chủ tịch xă gọi
điện tôi mới biết. Tôi nói ông ấy bảo
cầu Bà Lồ
để cho ông qua. Nếu không, ông với ba thằng
lính có chống nỗi cả đám nghĩa quân của xă
Tân Vạn hay không?". Tôi
biết ḿnh có lỗi, làm thinh đi thẳng lên pḥng.
Nghe nói buổi
sáng hôm sau, trong buổi họp ở ṭa tỉnh, bà dân biểu
Nguyễn Thị L., chị của xă trưởng Nguyễn
Thành Đ. báo cáo với tỉnh trưởng sự việc
đêm qua ở xă Tân Vạn. Tôi lănh đủ 30 ngày trọng
cấm. C̣n về khẩu súng mất, tôi không dám báo cáo v́ sợ
bị phạt thêm. Tôi cho lính tôi rao rằng ai lấy súng tôi
cho chuộc lại sẽ được trả 5.000 đồng.
Vài ngày sau, toán nghĩa quân ở cầu Bà Lồ hẹn tôi
ra quán ăn gần đó để trả lại súng cho
tôi. Thỉ ra, khi tôi bị ngă xe, toán
nghĩa quân thừa lúc tôi say, ăn cắp súng của tôi. lúc ra đỡ tôi và dựng xe lên.
Có những buổi
chiều ở cầu Đồng Nai, tôi, đại úy Nhuận
và vài sĩ quan trong đại đội xách theo một
chai Hennessy , lấy ca nô chạy qua Chợ
Đồn, neo ca nô ở cầu jetty rồi leo lên một
nhà hàng ven sông Đồng Nai để thưởng thức
món đặc sản đầu cá lóc hấp.
Đầu
năm 1973, sau hiệp định Ba Lê, với trách nhiệm
là một đại đội phó chính trị tôi được
đại úy đại đội trưởng giao công tác
phân tích bản văn hiệp định cho binh sĩ trong
đại đội am hiểu và truyền xuống cho họ
biết nhiệm vụ một người lính trong t́nh h́nh
mới. Và để cho tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ
một cán bộ chiến tranh chính trị của
đơn vị, tháng 8 năm 1973, tiểu khu Biên Ḥa cử
tôi đi học một khóa ở trường Đại
Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Nhưng khóa
học chưa khai giảng th́ tôi nhận được sự
vụ lệnh biệt phái trở về Bộ Giáo Dục
và tôi trở lại trường Ngô Quyền dạy học.
Tuy thời
gian mặc áo lính ở Biên Ḥa giữa mùa chinh chiến, ngắn
ngũi và không phải xông pha trong lằn tên mũi đạn
như lúc ở sư đoàn 9 bộ binh miền Tây những
năm 68-69, nhưng tôi cũng không thẹn ḷng khi đă làm
tṛn trách nhiệm của một người lính ở mặt
trận miền Đông.