Chương
3: Ba năm đại học
Năm 1962, 800 người có bằng Tú Tài 2 thi vào ban toán trường đại học sư
phạm Sài G̣n và chỉ có 40
người
được vào. Tỷ lệ đậu là 5%. Thủ khoa là Cù An B́nh em của giáo
sư Cù An Hưng. Ông Hưng là một giáo
sư nổi
tiếng ở Sài G̣n và giảng nghiệm viên cho lớp
chứng chỉ MGP (Mathématiques Générales, Physique: Toán
đại
cương, Lư) ở trường đại
học khoa học Sài G̣n. Nhưng B́nh không vào học mà
được
học bỗng đi du học bên
Pháp. Tôi đậu
hạng 9, Trần Ngọc Ẩn và Thái
Quang đều
đậu trên hạng tôi.
Trong số
những người dự thi có nhiều người đă đậu Tú Tài 2 một vài năm trước và
đang học
đại học khoa học.
Giáo sư
Trần Văn tấn, khoa trưởng ĐHSP
Khi tôi vào học th́ lúc đó giáo
sư Bùi Xuân Báo là khoa trưởng Đại Học Sư
Phạm, sau đó là giáo sư Trần Văn
Tấn, tiến sĩ Toán từ Pháp về. Sau này thầy
Tấn kiêm luôn viện trưởng viện Đại
Học Sài G̣n.
Giáo sư
Bùi Phượng Ch́, giám đốc khoa học ĐHSP
Chúng tôi
được
gởi sang học toán chung với các sinh
viên chứng
chỉ MGP. Thời đó, ở trường đại
học khoa học vẫn c̣n sử dụng tiếng Pháp, ngoài ra ngành giáo dục đại học miền Nam lúc đó c̣n thiếu giáo
sư nên phải
nhờ nước Pháp gởi một số giáo sư người Pháp sang
phụ trách dạy
một số môn học. Ở chứng chỉ MGP,
chúng tôi học Analyse ( Giải tích ) với
với thầy Monavon, Algèbre
moderne (Tân đại
số) với thầy Proule, Géométrie
analytique (H́nh học
giải tích) với thầy Nguyễn Chánh. Các môn khác chúng tôi học bên
trường
đại học sư phạm như Vật Lư với
thầy Bùi Phượng Ch́, Tâm
lư Sư phạm
với thầy Nguyễn Huy Bảo, Pháp Văn với bà
Teullière, Anh văn với cha Vỵ. Thầy Monavon c̣n phụ trách giờ bài tập bên đại
học sư phạm.
Tất cả những
người đậu vào ban
toán trường
đại học sư phạm đều là học sinh các trường trung học công lập nổi tiếng ở Sài G̣n như Chu Văn An và Pétrus Kư, chỉ có một người nữ là chị Vũ
Kim Dung, học sinh trường Trưng Vương.
Tức là toàn bộ đều xuất thân trường Việt. Không có
một
học sinh trường Pháp nào
lọt vô. Họ
thường là con nhà giàu, nhưng chỉ giỏi tiếng Pháp chứ không giỏi các món khác nhứt là môn
toán. Thường th́ họ
đậu vào ban Pháp Văn trường đại học sư
phạm hay học SPCN (Lư Hoá
Sinh)để thi vào Nha, Y, Dược, c̣n phần lớn đi học
đại học văn khoa. Là học sinh chương tŕnh Việt,
phải học bằng tiếng Pháp lại gặp toàn những môn học
mới mẻ, ban đầu chúng tôi
không hiểu ǵ ráo nhứt là môn tân đại số của thầy Proule. Có một anh chàng tên H. học chứng chỉ MGP. Vốn là dân trường Tây nên
anh ta nghe các bài giảng
của các giáo sư người Pháp chắc hẵn là dễ hơn
chúng tôi nên giờ nghỉ anh ta thường lên bảng huư hoáy viết
những định lư và giải thích cho
chúng tôi nghe. Ban đầu, chúng tôi
rất
nễ anh ta nhưng sau này khi
chúng tôi quen dần
với những từ ngữ toán học mới bằng tiếng Pháp, chúng tôi khám phá anh chàng H. chỉ giỏi nghe được
tiếng Pháp chứ không hiểu và không
giải
được bài toán nào cả. Nghe nói sau
này anh dạy toán đệ
nhất cấp ở một trường nào miệt
Rạch Giá hay Phú Quốc .
Khi thi lên
năm thứ hai,
hơn một nửa lớp của năm thứ nhất
bị ở lại, nguyên do
chính là tại
vấn đề phải học toán mới mà lại bằng tiếng Pháp. Những anh này đă xui xẻo lại c̣n xui
xẻo
hơn v́ qua
năm sau chương tŕnh học đổi thành 4
năm. Thành ra, nếu
từ đây dù mỗi năm đều lên lớp
họ cũng phải mất 5 năm mới ra
trường. C̣n người nào bị ở lại hai năm th́ bị
đuổi học mà chúng tôi gọi là “tốt nghiệp ngang hông” (sortie latérale). Thường th́ họ được bổ
dụng làm giáo sư đệ nhất cấp. Trong số
những bạn cùng vào học chung với tôi th́ có người học tới 7 năm mới ra
trường. Bạn bè gọi đùa
đó là các “bác sĩ sư phạm” v́ thời gian học sư phạm
bằng với thời gian học y khoa.
Có một câu chuyện buồn cười cho các sinh viên xuất thân
trung học
chương tŕnh Việt mà phải giải toán bằng
tiếng Pháp. Số là,
trong giờ bài tập
của thầy Monavon, mỗi người trong chúng tôi đều phải lên bảng giải một bài toán giải tích thầy cho.
Thường khi chúng tôi giải xong th́ được thầy chỉ cho chỗ thiếu sót và phán cho một câu: “à
vendredi prochain”, Có người giải một bài toán suốt sáu tháng chưa xong. Có một bạn lên bảng
giải bài khi đọc “trừ căn hai” bằng
tiếng Pháp, anh đọc là”
moins căn deux”, Cả
lớp phá lên cười v́ tiếng Tây ba rọi của bạn ḿnh nhưng thầy Monavon vẫn tỉnh bơ. Không biết ông có nghe một tiếng Việt chen giữa hai
tiếng Pháp của bạn tôi khi anh ấy nói một cách phản xạ chữ “căn” thay v́ chữ
“racine”.
Giáo sư
Đặng Đ́nh Áng
Tôi, Ẩn và Quang
đều
được lên năm thứ hai. Năm đó chúng tôi học chung toán với các sinh
viên của
chứng chỉ CDI (Calcul différentiel
et intégral: Toán vi tích phân) của trường đại học khoa
học. Chúng tôi học môn
Calcul với giáo sư người Pháp tên
Benneton và môn Topologie (Vị tướng học) với giáo sư Đặng Đ́nh Áng
(chú của
dương cầm thủ Đặng Thái Sơn), tiến sĩ toán từ Mỹ về. Một
điều tréo ngoe là thầy học toán bằng
tiếng Anh nhưng phải dạy toán bằng
tiếng Pháp. Bắt đầu năm thứ
hai, chúng tôi được thầy Tước dẫn
đi thực tập dạy ở các
trường trung
học. Tôi được thực tập dạy
1 giờ đại số lớp
đệ tam tại trường Nguyễn Trăi, lúc đó c̣n tạm trú ở trường tiểu
học Lê Văn Duyệt, đường Phan Đ́nh Phùng. Ngẫu nhiên
thay, 14 năm sau: năm 1977 tôi về dạy chính thức ở
trường Nguyễn Trăi, lúc
này đă dời
về quận 4. Trường Nguyễn Trăi là nơi đầu tiên và
cũng là nơi sau cùng tôi đứng dạy.
Khi lên
năm thứ ba, chúng tôi học chung
toán với các sinh
viên học
chứng chỉ Mécanique Rationnelle( Cơ học thuần lư), giáo sư trưởng môn là
thầy
Từ Ngọc Tĩnh. Đây là
năm cuối, tôi cố
gắng học hết sức ḿnh.
Các sinh viên đi trước cho chúng tôi
một tuy dô là thầy
Tĩnh sẽ lấy một bài
trong cuốn toán cơ học của Marcel Yvon làm đề thi. Tôi và Ẩn t́m
mượn
được cuốn đó, rồi dùng giấy carbon chép thành hai bản, một người chép nửa
cuốn đầu, một người chép nửa
cuốn sau . Như vậy mỗi người trong chúng tôi đều có một bản sao cuốn Marcel
Yvon. Chúng tôi giải hết những bài toán trong sách đó. Thật vậy, đề thi
thầy Tĩnh cho ra giống như trong sách của Marcel
Yvon. Tôi thấy ḿnh
“trúng tủ”
mừng rỡ làm ngay. Một giờ rưỡi trôi qua, tôi sắp sửa làm xong
bài. Dĩnh, bạn cùng lớp
của tôi, ngồi bên cạnh tôi hỏi nhỏ: Ân, mày đưa tao xem bài mày làm coi. Tôi kín đáo hé
tay cho Dĩnh nh́n. Bổng Dĩnh la nhỏ: mầy lộn
dấu rồi, Ân ơi. Trong đầu bài là dấu > chứ không phải
dấu <. Tôi toát mồ hôi v́
biết ḿnh chủ quan không đọc
kỷ đề bài. Thầy Tĩnh đă đổi
dấu để khác với bài
trong cuốn Marcel
Yvon. Chỉ c̣n một giờ rưỡi nữa
tôi làm sao làm kịp . Nhưng tôi
không bỏ
cuộc, làm bài lại từ đầu. Dĩ nhiên là tôi không làm hết bài. Tuy
nhiên, tôi vẫn
đủ điểm đậu ra trường nhưng không đậu cao
như ḿnh dự tính.
Đúng là “học tài thi phận “. Tôi đậu
hạng 15 trong khi Ẩn và Thái
Quang nằm trong
số những người đậu hạng cao.
Mùa Phật Đản năm 1963,
một biến cố xảy ra ở Huế: trong lúc một đám đông Phật tử tụ tập trước
đài phát thanh chờ nghe một chương tŕnh đặc
biệt về ngày Phật Đản th́ một
tiếng nổ xảy ra, nhiều người chết và bị
thương. Các vị lănh
đạo
Phật Giáo lên tiếng tố cáo nhà cầm
quyền đàn áp Phật Giáo. Và
từ đó cuộc
khủng hoảng Phật Giáo kéo
dài nhiều tháng kéo theo những vụ biểu t́nh, tuyệt
thực, tự thiêu mà đỉnh cao là vụ tự thiêu của hoà thượng Thích Quảng
Đức trên đường Lê
Văn Duyệt ,
trước toà đại sứ Cao Miên. Chính quyền phải sử dụng những
biện pháp đối phó
như giới nghiêm, thiết quân luật và tấn công vào một
số chùa, đặc biệt là chùa Xá Lợi nơi các vị lănh
đạo
của phong trào Phật Giáo
như Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh, Thích Hộ Giác,
Thích Tâm Giác...đang điều hành các
Phật
tử hành động phản kháng chính quyền. Cuối cùng,
ngày 1/11/1963 một
số tướng lănh mà đứng đầu là tướng
Dương Văn Minh đứng lên làm
đảo chánh lật
đổ tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm. Ông Diệm và em là Ngô Đ́nh Nhu bị giết chết.
Sau ông Diệm, những chính quyền
kế tiếp không kéo dài lâu v́ hết đảo chánh tới
chỉnh lư, miền Nam sống trong t́nh trạng
rối loạn. Trong tập thể sinh viên cũng chia thành nhiều nhóm khác
nhau: nhóm thân chính quyền và nhóm
chống chính quyền.
Nhiều cuộc biểu t́nh của sinh viên diễn ra. Tôi và đa số sinh viên
đại
học sư phạm lo học để ra trường
đi dạy nên không tham gia vào những sinh hoạt chính trị .
Hà Phụng đổ thủ khoa
được ưu tiên chọn nhiệm sở đầu
tiên nên về trường Nguyễn Đ́nh Chiểu,
Mỹ Tho. Các bạn đậu cao chọn
nhũng nơi an ninh như Vĩnh Long, Sa Đéc, Kiến Hoà (Bến Tre).
Ẩn chọn Cai Lậy, Thái Quang
chọn
Đức Hoà. Tôi c̣n chỗ trường Châu Văn Tiếp, Bà Rịa, nhưng gia đ́nh khuyên chọn về quê ngoại là Trà
Vinh nên tôi chọn trung
học Vĩnh B́nh, để Bà Rịa lại cho Cương
mũi đỏ.
Mùa
hè.năm 1965, tôi được mấy tháng rảnh rang nên lao ḿnh vào những cuộc vui của tuổi trẻ
như những party nhảy đầm tổ chức
ở nhà riêng hay ở các phân
khoa đại
học, nhất là văn khoa hay dược khoa, nơi có nhiều giai nhân.
Nhưng
cuộc vui nào cũng phải tàn.
Đầu tháng 9 năm 1965 tôi phải lên xe
đ̣ đi về Trà Vinh để nhận nhiệm sở.
Trà Vinh
tuy là quê ngoại
nhưng tôi không có ấn tượng ǵ về vùng đất đó.. Lúc nhỏ, khi
miền Nam c̣n yên b́nh, thỉnh thoảng má tôi có dẫn tôi về
chơi quê ngoại. Nhưng tôi chỉ
nhớ những lúc đó, má tôi gọi tôi dậy rất sớm, độ 3
hay 4 giờ khuya ǵ đó, khi ấy tôi nghe
tiếng xe
ngựa chạy lốc cốc ngoài
đường
Matelot Manuel, những ǵ sau đó tôi không nhớ. Trà Vinh
cũng chỉ
được tôi nhớ tới khi chiếc xe
xích lô máy chở bà ngoại tôi từ dưới quê lên thăm con cháu dừng trước cửa nhà tôi. Trà Vinh chỉ gây ấn tượng nơi tôi qua các thứ bà ngoại tôi
đem lên cho gía đ́nh tôi: những con gà bị cột chùm lại nhau kêu oang oác, hay những bao gạo nặng chịch mà ông xích lô máy vác xuống hoặc là những đ̣n bánh tét nhân đậu xanh ăn béo ngậy.. Chỉ có vậy thôi. Và như vậy lần này tôi sẽ được nh́n rơ Trà Vinh hơn bao giờ hết v́ tôi sẽ ở
và dạy
học ở đó một thời gian bao lâu tôi cũng không biết.