Chương 2: Thời trung
học
Trường
Nguyễn Văn Khuê cũ
Sau khi
đậu bằng tiểu học, ba má tôi gởi tôi học ở lycéum
(tiếng Latin nghĩa là trường
trung học) Nguyễn Văn Khuê, ỏ quận nhì
(nay đổi thành quận 1) trên đại lộ Nguyễn Thái
Học, gần chợ Cầu Muối. Tên trường cũng là tên của ông hiệu
trưởng, ông có bằng cử nhân
văn chương của trường
đại học Sorbonne nổi tiếng của Pháp.
Trường có hai hệ: chương trình Pháp và
chương trình Việt Ai
theo chương trình Pháp thì học bằng tiếng Pháp
theo giáo trình như bên Pháp, thi cử do Mission Culturelle của tòa
đại sứ Pháp đưa ra. Lớp nhỏ nhất của
chương trình này là sixìèm moderne tương
đương bên chương trình Việt là lớp
đệ thất (lớp 6 bây giờ). Tôi học lớp đệ thất C của chương trình Việt, lớp con
trai. Tôi còn nhớ lớp đệ thất A gồm toàn con gái trong đó có Lý Thị Quỳnh Nga,
một hoa khôi của trường, sau
này là vợ dân biểu đối lập Lý
Quý Chung của thời Đệ Nhị Công Hòa ở miền Nam.
Từ đệ thất tới
đệ tứ, tôi đi bộ từ nhà
đến trường theo lộ trình đường Đỗ Thành
Nhơn, quẹo trái theo đường Bến Vân
Đồn, lên cầu Ông Lãnh rồi xuống
đại lộ Nguyễn Thái Học. Bận về tôi theo lộ trình ngược lại. Có rất nhiều học trò
quận 4 đi học chung trường với tôi
nên dọc đường chúng tôi trò chuyên vói nhau quên
cả mỏi chân.
Sau 4
năm học từ đệ thất tới cuối
năm lớp đệ tứ thì tôi phải thi bằng
Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Chương trình học gồm có
toán, lý hóa, quốc văn, sử địa, sinh
ngữ Pháp và Anh, công dân giáo dục và
Hán văn. Tôi học với nhiều thầy mà tôi chỉ còn nhớ được một số thầy.
Năm đệ tứ tôi học toán với thầy
Đinh Văn Lô và nhờ phương pháp lập bảng của thầy mà
tôi giải được bài toán động tử trong
kỳ thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Tôi
có học quốc văn và Hán Văn với thầy
Đức. Tuy chỉ có bằng Tú Tài Hán Văn nhưng thầy
Đức dạy rất hay và làm cho tôi thích môn văn chương từ năm
đệ thất. Tôi nhớ bài học Hán Văn đầu tiên
của thầy chỉ có hai câu: Sâm lâm hữu thụ. hà lý
hữu ngư ( rừng có cây, sông có cá). Giọng
đọc của thầy trong tác phẩm Vang Bóng Một Thời của Nguyễn
Tuân:" Bọn xin nước vái chào nhà sư..." làm
cho tôi trở nên mê đọc tiểu thuyết. Thầy có
dáng dấp một ông đồ với bình
nước trà lúc nào cũng ở bên
mình. Tôi cũng học quốc văn với thầy
Lưu Trung Khảo, thầy Thẩm Thệ Hà, thầy này sau đi vào bưng.
Ba má
tôi thưởng cho tôi một chiếc xe
đạp mới ráp sau khi tôi đậu bằng
Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Từ đó, tôi khỏi phải lội bộ đến
trường nữa.
Năm
đệ tam tôi học toán với thầy Nguyễn Ngọc Ảnh, anh
họ của thầy Khuê. Thầy Ảnh rất khó, tôi thường bị khẻ tay
vì tật nói chuyện trong lớp. Chương trình toán lớp
đệ tam rất khó, thầy Ảnh dạy theo
lối cổ điển nên đa số học sinh
trong lớp chúng tôi không theo thầy nỗi.
Cũng may không phải là lớp thi! Tôi học hóa với thầy Hà
Huy Phiến. Nhà thơ Nguyễn Vỹ dạy tôi
môn Quốc Văn. Ông là chủ nhiệm của tạp chí
Phổ Thông, nghe nói ông mất trong một tai
nan xe hơi trên đường xuống Mỹ Tho
dạy học.
Lên lớp
đệ nhị tôi được học với nhiều vị giáo
sư nổi tiếng ở Sài Gòn. Tôi học hình học với thầy Phạm Huy
Ngà, thầy cụt một ngón tay. Thầy có cách dạy hấp dẫn làm
tôi mê môn hình học không gian. Tôi học đại số với thầy
Đức. Thầy Trương Đình Ngữ, tác
giả nhiều cuốn sách vật lý nổi tiếng dạy tôi môn vật lý, thầy
cũng khiến tôi mê môn quang học với những hiện
tượng phản chiếu, khúc xạ và những dung cụ quang
học như gương phẳng,
lăng kính, thấu kính. Tôi học quốc
văn với thầy Hà Như Chi. Thầy là dân biểu quốc hội. Lần nào
phát bài làm nghị luận văn chương thầy
cũng cho đọc bài của tôi cho cả lớp nghe
vì bài tôi đứng nhứt. Nhưng vì một lời
khuyên của thầy là cách hành văn của tôi thiên về lối phân
tích nên tôi đi theo ngành khoa học là tốt
hơn. Tôi nghe lời thầy nên sau khi đậu Tú Tài 1 tôi vẫn tiếp tục học ban B
(ban toán) chứ không theo ban C (ban văn chương).
Tôi
đậu bằng Tú Tài 1 hạng Bình Thứ ngay
khóa 1, trong khi đó bạn cùng lớp tôi
là Thái Quang, gốc người Hoa rất giỏi toán đậu hạng
Bình. Trường Nguyễn Văn Khuê cho làm một cái bảng to
tướng dựng trước cổng
trường danh sách học sinh của
trường đậu Tú Tài 1.
Trường Chu Văn An cũ
Tôi và
Thái Quang nộp đơn xin vào học trường Chu
Văn An, một trong hai trường nam trung học có học sinh
giỏi nhất Sài Gòn: Pétrus Ký và Chu Văn An. Trường
Pétrus Ký gồm đa số học sinh
là người miền Nam. Còn Chu Văn An là trường di
cư từ miền Bắc vào nên học sinh ở đó
hầu hết là người miền Bắc. Tôi
được cho vào học lớp
Đệ Nhứt B6, còn Thái Quang học lớp khác.
Trong lớp tôi chỉ có tôi và Nguyễn Văn Giàu là người miền Nam.
Giàu sau khi đậu Tú Tài 2 thì trúng tuyển vào Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú
Thọ (Trường Đại học bách
khoa ngày nay), ban kỹ sư điện. Khi ra trường anh
làm cho trung tâm điện lực ở Thủ Đức. Sau
75, cha anh tập kết ra Bắc trở về, anh ứng cử và
làm đại biểu quốc hội của chế độ mới. Trước
1975, tôi chơi thân với anh ấy,
thường đến nhà anh ở chợ Thiếc. Cánh
nhà anh cũng nghèo và tôi chỉ thấy
anh ở với bà mẹ. Hỏi dến cha anh thì anh ấy nói đã mất.
Giáo
sư Nguyễn Văn Kỷ Cương
Hiệu
trưởng trường Chu Văn An là thầy Trần
Văn Việt. Thầy Nguyễn Văn Kỷ Cương, sau nay là
thượng nghị sĩ, làm giám học và thầy Lãng
là tổng giám thị. Tôi được hân hạnh học với các
thầy có tiếng tăm ở Sài Gòn. Trong chương
trình lớp 12B tôi phải học 7 môn
toán: Hình học, hình học giải tích, đại số, số học,
lượng giác, cơ học, thiên văn. Tôi còn nhớ thầy Nguyễn
Văn Kỷ Cương dạy tôi hình học giải tích,
thầy Đỗ Minh Tiết dạy
cơ học.Tôi học vật lý với thầy Nguyễn Văn Thi, triết với thầy Nguyễn
Văn Long, Đặc biệt thầy Vũ Khắc Khoan, kịch tác
gia mà các vỡ kịch nổi tiếng của ông là Thần Tháp Rùa và Thành Cát Tư Hãn,
dạy tôi môn sử. Cả năm
học thầy dạy chưa hết bài: Nguyên nhân Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ 3.
Là một nhà sử học, thầy nắm rất nhiều tài liệu lịch sử về biến cố đó nên thời gian 1 giờ mỗi tuần cho
môn sử trong niên học không đủ để thầy trình
bày hết nhưng chỉ tội cho bọn học trò
chúng tôi phải tự tìm sách học thêm các bài khác để đi
thi. Cũng ở trường Chu Văn An, tôi đã gặp thi
sĩ Vũ Hoàng Chương dạy văn cho cấp lớp
đệ tam. Năm đệ nhất tôi
say mê môn hình học , tôi giải hết 800 bài tập trong cuốn
Geométrie, classe de Mathémathiques của Lebossé.
Kỳ thi
Tú Tài 2 năm 1962, Thái Quang lại đậu hạng
Bình, tôi và Giàu đậu hạng Bình
Thứ. Như đã nói trên, Giàu thi đậu vào kỷ sư
điện, còn tôi và Thái Quang đậu vào
ban toán trường Đại Học Sư Phạm. Tôi còn đậu dự khuyết vào kỷ sư
điện, sau đó được gọi vào học
nhưng tôi từ chối và chọn học sư phạm.
Trong
thời gian từ năm 1955 đến năm 1962, có thể nói
đó là lúc yên bình của miền Nam.
Tuy nhiên cũng có nhiều sự kiện mà
tôi còn nhớ đến ngày hôm nay.
Làn
sóng di cư từ miền Bắc kéo dài từ sau hiệp
định Genève 1954 qua đến năm 1955. Lúc nhỏ tôi
thường ra bến tàu chơi và chứng kiến cảnh những
người di cư gánh gồng đồ đạc lủ khủ từ những chiếc tàu
lên bờ. Nhưng có một lần tôi
trông thấy một cảnh tượng rùng rợn khi chiếc tàu Nam Việt chở đầy những xác
chết của người di cư. Thì ra từ cửa biển vào
Sài Gòn khi dến Rừng Sác thì tàu lọt vào trận
đánh nhau giữa quân dội Quốc Gia của ông Diệm và tàn quân Bình Xuyên nên nhiều
người bị tử vong. Hình ảnh những xác
chết nằm chồng chất trên boong tàu khến tôi kinh sợ và
bị ám ảnh suốt nhiều ngày.
Năm
1957, nhân lễ Quốc Khánh chính quyền VNCH có tổ chức một hội chợ bên
Thị Nghè. Ngỏ đi từ sở thú
qua thị nghè có một cây cầu
đúc, đêm khai mạc hội chợ người ta
chen lấn, xô đẩy nhau trên cầu
để vào hội chợ khiến 17
người chết và nhiều người bị thương vì dẫm đạp nhau
và rơi xuống sông. Hội chợ vẫn tiếp tục mở cửa và mấy hôm sau má tôi dẫn anh em tôi đi chơi hội chợ thì
thấy trên cầu chỉ còn lưa thưa người vào hội chợ, có lẽ người
ta e sợ tai nan có thể xảy ra nữa. Sau
khi hội chợ chấm dứt thì khu hội chợ biến thành
giải trí trường Thị Nghè,
nơi có nhà hàng, trò chơi và trình diễn ca cỗ do
nghệ sĩ Lệ Liễu tổ chức.
Ngày
11-11 năm 1960, đại tá nhảy
dù Nguyễn Chánh Thi làm binh biến định
đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diêm nhưng thất bại vì
quân trung thành với ông Diệm từ miền Tây kéo về giải cứu. Dân
Sài Gòn sống trong lo sợ hết mấy ngày.
Những người cầm
đầu cuộc đảo chánh dùng máy bay sang Cao Miên tỵ nạn.
Sáng
ngày 27-2 năm 1962, tôi đang ở trên
xe bus đến trường Chu Văn An thì nghe radio báo tin hai chiếc may
bay đang oanh tạc dinh Độc Lập . Sau
đó mới biết đó là hai phi công của Không Lực VNCH
thay vì đi hành quân, quay về tấn công
dinh tổng thống. Dinh Độc Lập bị sập một phía,
nhưng chỉ có bà Ngô Đình Nhu bị thương
nhẹ. Một chiếc máy bay bị bắn hạ bởi cao xạ của Hải Quân
và phi công trung úy Phạm Phú Quốc bị bắt. Chiếc máy bay thứ hai do thiếu úy
Nguyễn văn Cử lái bay thoát qua Cao Miên và
viên sĩ quan này xin tỵ nạn chính
trị tại đây. Sau ngày chính quyền Ngô
Đình Diệm bị lật đổ, Phạm Phú Quốc trở lại không
quân và bị bắn hạ khi lái máy bay oanh tạc miền Bắc gần thành
phố Vinh. Ông được dân địa
phương chôn cất và về sau người chị của ông từ Mỹ về tìm
và đem hài cốt về miền Nam cải táng. Riêng Nguyễn Văn Cử sau
là dân biểu đối lập trong thời Đệ Nhị Công Hòa ở miền Nam.
Sau khi
đậu Tú Tài 1, tôi thường đi chơi với các bạn
đồng lứa ở khu tôi ở. Người bạn từ thuở ấu thơ là Nguyễn Văn Đối, ở hẻm nhỏ có
tiệm bán cơm ở gần nhà bảo sanh
Cô Mụ Điếc, cha làm thợ hớt tóc sống với mẹ kế. Có một thời gian
dài chúng tôi không chơi với nhau cho mãi đến khi học lớp dệ nhất. Một
người bạn khác là Phạm Văn Cảnh, con
của bà chủ bar Ánh Sáng, nhà trên đường
Trình Minh Thế giữa ngả ba Tôn Đản và hẻm lò
bánh mì. Cảnh học chung với tôi ở trường Nguyễn
Văn Khuê và rất giỏi Pháp Văn có lẽ nhờ mẹ anh
ta mở bar từ thời còn
lính Pháp. Qua Đối tôi quen với Lương Trọng
Bình, nhà ở trong hẻm đường Tôn
Đản, đối diện nhà ông hộ Lắm (nay
là hẻm tiệm vàng Đức Tín). Cũng qua Đối tôi
quen thêm Nguyễn Công Thiểm, con trai lớn của nhà
may Thiêm, trên đường Trình Minh Thế, lúc
trước ở bên kia dường, sau dời qua
phía bên này. Một người bạn mới nữa là Thọ, nhà cũng ở đường
Trình Minh Thế gần Bến Súc. Thọ, sau khi đậu Tú Tài 2, Thọ thi
vào trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc và trở thành
kỷ sư thủy lâm. Một
người bạn khác ở đường Tôn
Đản, xóm Cây Bàng, cha cũng là thợ hớt tóc
là anh Trần Ngọc Ẩn. Khi anh ấy đậu Tú
tài 1 thì tôi mới đậu bằng
Trung Học Đệ Nhứt Cấp, nhưng về sau lại cùng
vào Đại Học Sư Phạm ban toán với tôi.
Sau
năm 1960, chiến tranh ở miền Nam
leo thang. Một số bạn bè tôi phải nhập
ngũ. Tôi và một số bạn đưa Đối vào Quân Vụ Thị trấn để đi
vào trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường anh
về miền Tây và khi giải ngũ mang cấp bực thiếu tá.
Sau khi đi cải tạo về anh sang định cư ở Canada. Cảnh
cũng vào Võ Bị theo ngành hành chánhh tài chánh, bây giờ không
biết ở đâu. Bình cũng vào Võ Bị,
năm 1975 nhờ có các em gái làm cho hãng máy bay Pan America nên năm
1975 di tản sang Mỹ. Thiểm vào không quân, cấp bực sau
cùng là thiếu tá, sau khi ra trại cải tạo
được các em gái bảo lãnh sang Pháp. Thọ đi
định cư bên Pháp. Còn Ẩn thì
năm 1974 đi tu nghiệp bên Pháp và ở luôn ở đó.