Chương 10- Canada: xứ
lạnh, t́nh nồng
Tôi ở trại
tỵ nạn được một năm rưởi
th́ được định cư ở Canada. Đáng lẽ tôi đi Mỹ theo diện cựu
quân nhân nhưng v́
tôi có em gái ở Canada
nên phải
sang đó
theo diện đoàn tụ gia đ́nh. Phụng,
em gái tôi đă ở Montréal từ năm 1985 nhờ hội nhà thờ bảo lănh tôi sang đó.
Giữa tháng 4 năm 1988, tôi đến thành phố Montréal. Ở đây, người
ta vừa
trải
qua một
mùa đông
lạnh lẽo,
cây cối
vẫn c̣n trơ cành
trụi
lá. Em tôi nói với
tôi rằng
Canada được
mệnh danh là xứ lạnh t́nh nồng
v́ nơi đây
tuy khí hậu
lạnh lẽo,
nhưng người
dân ở đây dành cho người
mới tới
một t́nh cảm
nồng ấm,
không phân biệt
màu da hay tiếng
nói như một
số nơi khác
trên thế giới. Canada chủ trương một xă hôi đa văn hoá. Ở đây,
hai cộng đồng văn hoá lớn
nhứt
là cộng đồng nói tiếng Anh và cộng đồng nói tiếng Pháp. Hai cộng đồng này đă h́nh thành theo ḍng lịch
sử. Theo chân người
Tây Ban Nha, người
Pháp chiếm
vùng đất
này đầu
tiên. Nhưng sau đó
người
Anh với
thế mạnh của
hải quân đă
chiến
thắng
người
Pháp để làm
chủ vùng đất này. Sau khi Hoa Kỳ dành được độc lập cho đất
nước từ tay đế quốc Anh, những
người
trung thành với
hoàng gia Anh chạy
sang Canada làm cho cộng đồng người nói tiếng Anh càng đông
hơn.
Vế sau
có những
cộng đồng
người
Hoa, Ukraine, Ư, Hy Lạp,
Nam Mỹ, Ấn Độ,
Việt
Nam và Đông
Âu đi dân
sang đây
sau những
biến động từng thời
kỳ trên thế giới.
Cộng đồng người nói tiếng Pháp tập
trung đông đảo nhứt ở hai
tỉnh Québec và Noveau Brunswick. C̣n cộng đồng
người
Anh đông đảo hơn tập trung ở các tỉnh
khác. Tiếng
Anh và tiếng
Pháp là hai ngôn ngữ chính
thức
của Canada.
Năm
1980 dưới thời
thủ hiến René Lévesque, và năm
1995 dưới thời
thủ hiến Jacques Parizeau, đă
có hai cuộc
trưng cầu
dân ư ở Québec để giành độc
lập nhưng đều
thất
bại.
Vừa
tới Canada, ngay ngày hôm sau tôi lên sở đi trú
làm đơn bảo
lănh vợ và
hai con c̣n kẹt
lại ở Việt Nam.
Tôi về ở với vợ chồng em gái tôi trên đường Berri gần ga métro (ga xe điện ngầm) Crémazie. Hai đưa quen nhau trên đảo tỵ nạn nhưng khi qua đến
Montréal mới làm đám cưới.
Em rể tôi
có đầy đủ gia đ́nh ở đây
c̣n em gái tôi một thân, một ḿnh nên phải nhờ người quen đứng chủ hôn.
Một tuần sau ngày tôi
tới, em gái tôi sanh đứa con gái đầu
ḷng ở bệnh vện Juif khu Côte
des Neiges. Từ nhỏ đă
học tiếng Pháp,
lên đại học sử dụng tiếng Pháp làm chuyển ngữ và thời gian ở trại tỵ nạn, tôi là hiệu trưởng trường Pháp Văn,
hàng ngày tiếp xúc với cố vấn người Pháp nên tôi không bỡ ngỡ khi hội
nhập vào xă hội ở đây. Tôi có thể đi
thăm
em gái tôi bằng métro và xe
bus dễ dàng dù
chỉ mới tới đây có vài ngày.
Tôi ghi danh học COFI (Centre d’orientation et de francisation des immigrants) tức là Trung tâm hướng nghiệp và dạy tiếng Pháp cho di
dân. Thời đó, học COFI được lănh khoảng 350 đô mỗi tháng gồm tiền sinh hoạt và tiền xe. Thời gian học từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Tôi đă
biết tiếng Pháp nên cô giáo già thường nhờ tôi dạy thế cho cô mỗi khi cô bận. Em rể tôi dẫn tôi đi
làm ca hai (từ 4 giờ chiều đến
12 giờ đêm) cho một hảng giặt quần jean. Lương tối thiểu chỉ có 4,50 đô một giờ nghĩa
là 720 đô
một tháng cộng tiền COFI cho là 1070 đô một tháng là khá
nhiều trong năm 1988 khi mà 100 lít
xăng
cũng
như thẻ tháng đi
métro và bus chỉ có
19 đô.
Buổi chiều, khi xong lớp COFI tôi nhảy lên métro rồi chuyển qua xe
bus đi
tới chỗ làm. Công
việc tôi ở đó
là bỏ vào máy
giặt một xấp quần jean Trong máy giặt đă có sẵn các ḥn sỏi. Khi cho máy
chạy, các viên sỏi làm cho quần bị cà thành những đốm
trắng, Mode thời đó
và cả bây giờ là quần jean phải có lốm đốm
trắng. Nhưng lúc đó chưa có mode mặc quần jean rách như bây giờ! Giặt xong, tôi bỏ quần vào máy sấy để sấy khô rồi đưa
qua nhóm thợ ủi. Cơm
chiều em gái tôi nấu cả hai phần để em rể tôi mang
vào hăng, hai anh em sẽ ăn vào giờ break. Tan ca, tôi và em rể phải nhanh chân nhảy lên xe
bus để kịp chuyển đi
chuyến
métro chót về nhà.
Ở tỉnh Québec, nhứt là ở Montrẻal, những người ở nhà thuê
có truyền thống thích thay đổi chỗ ở. Hàng năm, cứ vào đầu tháng 7, nhằm ngày lễ Quốc Khánh Canada,
họ trả nhà đi mướn
chỗ khác. Có
khi chỗ mới tệ hơn chỗ cũ hoặc giá thuê mắc hơn nhưng họ vẫn thích đổi
chỗ ở, Mỗi lần dọn nhà, họ bỏ những vật dụng cũ như salon,
bàn, tủ , ghế, giường. nệm cũ ra đường để khi đến
chỗ mới sắm đồ mới. Những người
nghèo hơn
hay những di dân mới đến không có tiền mua sắm cứ việc đến mang về dùng,
Vợ chồng em tôi cũng dọn nhà khác vào đầu tháng 7 năm đó, nhưng không phải bắt chước
những người
Québécois (dân địa phương ở Québec) mà để mướn
một căn
nhà rộng rải hơn,
có hai pḥng ngủ để tôi
có chỗ ngủ thay v́ ngủ ngoài
pḥng khách như ở chỗ cũ. Ở đây,
người ta tính sức chứa một căn hộ theo số pḥng của nó, Pḥng ngủ, pḥng khách,
pḥng ăn đều
tính là đơn
vị, c̣n nhà tắm là
nửa đơn
vị. Căn
hộ nào cũng
phải có pḥng ngủ và nhà tắm. Như vậy, một căn hộ nhỏ nhứt là 11/2 nghĩa
là có một pḥng ngủ và một nhà tắm. Căn
hộ 21/2 có một pḥng ngủ, một pḥng ăn và một nhà tắm. Căn hộ 31/2 có một pḥng ngủ, một pḥng khách,
một pḥng ăn
và một nhà tắm. Căn
hộ 41/2 có hai pḥng ngủ,
một pḥng khách, một pḥng ăn và một nhà tắm. Thời đó
giá mướn một căn hộ như sau:
150 đô
cho căn
hộ 11/2, 250 đô cho căn
hộ 21/2, 350 đô cho căn
hộ 31/2, 450 đô cho căn
hộ 41/2...Giá thuê nhà ngày nay mắc
hơn
nhiều; một căn
hộ 41/2 giá ít nhứt
là 800 đô.
Nhà mới chúng tôi là 41/2, ở tầng trên của một nhà hàng Ư trên đường Jarry cách
xa chỗ ở cũ chừng 3km. Một điều cần lưu ư là khi mua hay
thuê nhà không nên ở gần nhà hàng hay chợ v́ những nơi đó sẽ có rất nhiều chuột .
Một thời gian
sau, để gia đinh
em gái tôi có không khí riêng tư , tôi thuê một
căn
hộ 21/2 ở đường
Drolet gần chợ trái cây Jean Talon ở riêng. Ỏ đây
rất tiện v́ gần chợ Á Châu:
chợ Asie, chợ Pnom Penh và ga métro Jean Talon.
Tôi gởi thơ về Việt Nam cho vợ tôi để gởi qua cho tôi
những giấy tờ hộ tịch và những văn
bằng của tôi ở Việt Nam. Tôi nhờ thông dịch viên hữu thệ dịch những giấy tờ đó. Tôi làm équivalence
bằng tốt nghiệp đại học để ghi
danh học bằng Giáo Dục So Sánh Và Quốc Tế (Diplôme
de l'éducation comparée et internationale) ở trường đại
học Montréal. Đồng thời tôi đi phỏng vấn ở sở giáo dục thành phố để xin
giấy phép dạy học. Về việc học, tôi phải bỏ dỡ dang nữa chừng v́ khi vợ con qua tới, tôi phải lo sinh kế cho
gia đ́nh.
Tôi được sở giáo dục cấp giấy phép dạy trung học nhưng
khi nộp đơn vào các Commission
Scolaire xin việc th́ được
trả lời chờ đó, khi nào có chỗ sẽ nhận. Th́ ra lúc đó trong ngành giáo dục
không có ai bỏ chỗ. Sau này, thời thủ tướng Lucien Bouchard, chính phủ có
chính sách cho giáo chức nghỉ hưu
sớm (retraite anticipée) th́ có chỗ trống nhiều nhưng lúc đó tôi đă gần 60 tuổi rồi.
Khi tôi ở riêng được vài tháng th́ tôi bị mất việc ở hăng quần jean. Tôi chỉ c̣n lănh được có 350 đồng
của COFI trong khi tiền
nhà là 250 đô,
mỗi tháng tôi gởi về cho vợ con
100 đô
và mẹ tôi
50 đô
vá c̣n tiền sinh hoạt của tôi: tiền chợ, tiền xe bus... Tôi không biết
xoay sở làm
sao đây?
Thế là mỗi ngày
tôi đều mua một tờ báo Journal De Montréal để t́m việc làm. Thời đó Internet chưa phát triển nên báo nào cũng
có vài chục trang dành
cho mục rao vặt: mua, bán, cho thuê nhà cửa,
xe cộ, sang tiệm, cần người
làm...Ngày nay, có nhiều tờ báo phải ngưng không ra phiên bản in như tờ báo La Presse có lịch
sử hàng mấy trăm năm ở Québec v́ không c̣n nhiều độc giả và khách
hàng đăng
trong các mục quảng cáo và rao vặt chẳng c̣n bao nhiêu.Tờ Journal
De Montréal mà đối tượng độc giả b́nh dân
hơn
vẫn tiếp tục ra báo giấy nhưng mục rao vặt thu gọn có một vài trang.
Nhờ mục rao vặt cần người
của tờ Journal
De Montréal, tôi t́m được việc làm ở hảng sản xuất thịt nguội Charcuterie
Parisienne ở đường
Marconi không xa nơi
tôi ở. Hăng này là một công ty của gia đ́nh người
Thụy Sĩ gốc Do Thái di dân sang Québec thành lập
từ năm
1940. Người sáng lập là cha của ông Jacques (chủ của tôi), ban đầu ông ta mở một tiệm nhỏ làm thịt nguội: pâté, jambon, saussisse...giao cho các nhà hàng gần đó
bằng xe đạp. Dần đần,
tiệm phát triển thành một thương hiệu nổi tiếng có khách hàng là các siêu thị,
nhà hàng lớn, khách sạn...ở Montréal,
Québec, toàn Canada và cả bên Mỹ. Tuy không lớn như thương hiệu Mapple Leaf nhưng
thịt nguội của Charcuterie
Parisienne ngon hơn
v́ đa
số sản phẩm làm bằng thủ công.
Nhân viên sản xuất ở đây
không đông
và đa
số là di dân, nhiều
nhứt đến
từ Âu Châu. Lúc tôi làm ở đó th́ có ba
người Bồ Đào Nha, hai người
Québécois, một người
Tây Ban Nha, một người
Croatie,một người
Pháp và hai người Á Châu là tôi và một
người Lào gốc Hoa. Nhân
viên văn
pḥng và tiếp thị đều là người Québécois.Thời đó di dân Nam Mỹ và Trung Mỹ đến
Québec rất đông nhưng ông Jacques không mướn
họ v́ biết bản chất họ lười biếng và thường ăn cắp vặt. Sau
này, ông Jacques nhờ tôi giới thiệu thêm hai người
Việt khác là người
quen của tôi là:
Hùng, ở chung trại tỵ nạn với tôi và Sơn, quen với Vũ cùng
học COFI với tôi.
Tôi và anh
chàng người Lào làm ở khâu đóng gói hàng, Sơn rửa khuông jambon và Hùng làm vệ sinh
tổng quát. Bốn người
Á Châu chúng tôi làm lao động phổ thông nên
lương
thấp hơn nhóm người đến
từ Âu Châu v́ họ có nghề làm thịt.
Ai cũng biết bản chất người Do Thái là keo kiệt.
Lúc cha của ông Jacques mất, ông rao bán nhà của
cha ḿnh. Ông ta hỏi tôi có cần một bộ salon c̣n tốt ở nhà cha ông không. Lúc đó vợ con tôi sắp được qua đây
nên tôi trả lời cần. Ông ta nói
ông sẽ bán rẻ cho tôi. Tôi trả lời rằng tôi không có
tiền mua và nhủ thầm: ông
này đúng
là "trùm ṣ", đồ cũ nếu không cho th́ quăng
ra đường có đâu đ̣i bán cho ḿnh. Mấy bữa sau, ông
Jacques sai tôi và anh chàng Lào đi khuân bộ salon lên
xe chở về nhà con gái lớn
của ông ta.
Tôi làm việc ở đây th́ không có ǵ nặng nhọc, nhưng tủi thân nghĩ v́
ḿnh ở "bên
thua cuộc" (nói
theo cách của nhà báo Osin
Huy Đức, tác giả cuốn "Bên thắng cuộc") nên từ một người làm việc trí óc có cuộc sống phong lưu phải lưu
vong sang xứ người
làm lao động chân tay lănh đồng lương tối thiểu. Mỗi buổi sáng
trên đường từ nhà đến
chỗ làm tôi tự nói thầm: đây là "con đường đau khổ" (tựa một cuốn tiểu thuyết của Ngamà tôi đă đọc
trong thời gian ở trại cải tạo). Nhưng tôi tự an ủi, không riêng
tôi nhiều người
Việt khác cũng ở trong hoàn cảnh như tôi. Tôi biết ở Montréal
có một ông là bác sĩ, giáo sư trường đại
học y khoa Sài G̣n là thầy
dạy vợ ông, cũng là bác sĩ, đă phải làm lao động chân tay như cọ rửa
toilette để nuôi vợ ông học lại lấy bằng bác sĩ hành nghề tại đây. Tôi thường
gặp ông lang thang như người thất chí trong
mall dưới phố.
Tôi tự hứa với ḿnh sẽ "hy
sinh đời bố để củng cố đời
con". Sau này khi các con tôi qua đây, dù làm việc cực khổ đến
mấy tôi cũng
phải lo cho các
con tôi có một chỗ đứng vinh dự trong xă
hội này.
Thời đó
khu Côte Des Neiges là nơi tập trung nhiều người Việt nhứt. Cuối tuần nghỉ việc Hùng thường lấy xe chở tôi và Sơn
xuống chơi nhà Thiện, người ở chung trại tỵ nạn với Hùng. Thiện và vợ tên Thẩm và đứa con đẻ ở đảo được đặt
tên là Viễn Xứ thuê nhà bên cạnh
nhà của chị ḿnh, là một contracteur
may.
Trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước
có thể nói
Montréal là trung tâm may mặc của thế giới. Hầu hết những gia đ́nh Việt Nam ở đây làm nghề may gia công. Người nào làm nghề may lâu năm
kư hợp đồng
với các hảng may lớn lănh quần áo đă cắt sẵn về giao lại cho nhiều người may tại nhà. Xong, họ thu về làm
finition nghĩa
là làm khuy, đơm
nút và ủi. Họ, được gọi là
contracteur may, thuê một chỗ rộng rải, mua một số máy may, máy làm khuy, đơm nút và máy ủi. Tại chỗ, họ mướn một người
may giỏi để may mẫu, người làm khuy, đơm
nút, cắt chỉ và ủi. Thường
những người
già phụ trách cắt chỉ lănh lương thấp nhứt cón những người thợ ủi phải là những thanh niên khỏe mạnh lănh lương
cao nhứt. Người
may ở nhà phải sắm ít nhứt một máy plain
(may hai chỉ) và một máy overlock (may 3 hoặc
5 chỉ) để hành
nghề. Hiệu máy tốt nhứt là Juki của Nhật. Máy plain phải là máy tự động cắt chỉ mới may
nhanh được. Mỗi lần nhận hàng, người
may gia công phải may vài trăm cái áo hay quần trong một tuần hay mười ngày. Người may gia công nếu chưa có nhà riêng th́ phải thuê nhà ở tầng trệt hay sous sol
(tầng hầm) để hành nghề tránh
gây ồn ào cho những người bên cạnh.
Sau này, Thiện mở contracteur
may và vợ tôi may
gia công cho Thiện. Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, bọn tư bản v́ lợi nhuận tung ra sách lược "toàn cầu hóa"
công nghiệp để đem hăng xưởng
sang những nước đang phát triển ở Nam Mỹ và Á Châu, nhứt
là Trung Quốc và Ấn Độ để lợi dụng giá nhân công rẻ. Hậu quả, Montréal mất địa vị thủ đô
may mặc của thế giới. Nghề may gia
công ở đây xuống dốc v́ giá công
may rẻ mạt, không đủ sống. Rất nhiều người
bỏ nghề.
Trước đây, ở Montréal có hai nghề thông dụng của người Việt Nam ngoài việc đi
làm công ở các hảng xưởng là nhà hàng và may gia công. Nghề may đi xuống làm nhà hàng ít khách. Một
số người trong hai ngành nghề này
v́ cuộc sống đổ qua nghề bất hợp pháp
:"trồng cỏ" (trồng cần sa). Họ mướn
một căn
nhà, hợp đồng
với những tổ chức tội phạm ma túy, thường
là người Ư để trồng cần sa tại nhà. V́ cây cần sa cần nhiều ánh sáng nên họ phải sử dụng điện rát nhiều để thăp sáng nên thường
bị bại lộ v́ công ty Hydro-Québec khám phá số điện tiêu thụ quá mức b́nh thường nên nghi ngờ và báo
cho cảnh sát. Thế là họ phải vào tù. Nay chính phủ Canada
của thủ tướng
Justin Trudeau đă
hợp thức hóa việc sử dụng cần sa và cũng như rượu,
cần sa được nhà nước độc quyền kinh doanh!
Nghề "trồng cỏ"
nay đă
vào tay nhà nước và một lần nữa có một số người
Việt bị "thất nghiệp".
Canada là một liên bang gồm 10 tỉnh bang và hai lănh thổ.
Québec là tỉnh bang rộng nhứt nhưng Ontario là tỉnh bang đông
dân nhứt. Mỗi tỉnh bang được
tự trị trong
liên bang tương
tự như một tiểu bang trong Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nhưng theo chế độ đại nghị như bên Anh. Sau một cuộc bầu cử , đảng
nào có nhiều người đắc
cử nhứt th́ chủ tịch đảng đó làm thủ tướng (liên bang) hay thủ hiến (tỉnh bang). Liên
bang có quốc hội gồm hai viện: thượng viện và hạ viện. Dân biểu hạ viện do dân bầu c̣n thượng
nghi sĩ do
thủ tướng
chỉ định.
Quốc hội tiểu bang chỉ có một viện mà dân biểu do dân bầu. Liên bang giao cho tỉnh
bang nhiều quyền hạn nhứt là tỉnh bang Québec,
nơi
cộng đồng nói tiếng Pháp đông nhứt. Canada nằm trong Khối Thịnh Vượng
Chung nên thủ tướng
liên bang chỉ định
một người làm Toàn Quyền Canada thay mặt nữ hoàng Anh
và thủ hiến tỉnh bang chọn một phó Toàn Quyền. Chức vụ Toàn Quyền hoặc phó Toàn Quyền chỉ có tính cách tượng trưng trong nghi lễ.
Ba thành phố lớn nhứt ở Canada là
Toronto thuộc tỉnh bang Ontario, Montréal thuộc
tỉnh bang Québec và Vancouver thuộc
tỉnh bang Colombie Britanique. Người Viêt tập trung đông đảo
nhứt ở ba thành phố đó. Theo giáo sư Lâm Văn Bé trong bài biên khảo: “Diện mạo người Việt tại Canada từ ngày mới lập cư đến
năm
2016” số trí thức Việt Nam tập trung đông đảo
nhứt là ở tỉnh bang
Québec đặc biệt là ở Montréal. Tổng số người Việt ở Montréal năm
2016 là 38.660 người mà trong đó
có 530 bác sĩ,
280 nha sĩ và
150 dược sĩ (theo
BS Từ Uyên). Tỷ lệ người
Việt có bằng đại học và hậu đại học ở tỉnh bang Québec
cũng
cao bằng dân bản xứ và gấp đôi
người Việt ở các tỉnh bang đông người
Việt như Ontario,
Colombie Britanique và Alberta.
Có thể giải thích là thế hệ thứ nhứt của những người
nhập cư Việt ở Canada là
những người được đào tạo trong hệ thống giáo dục ở miền Nam trước
75 thông thạo tiếng Pháp, nhứt là những người có tŕnh độ đại học phải dùng chuyển ngữ tiếng Pháp trong học tŕnh (đặc biệt là các bác sĩ) nên họ chọn tỉnh bang Québec. Dù đa số các người đó không có cơ hội sử dụng lại ngành nghề chuyên môn của ḿnh nhưng con cháu họ thừa kế gen của ông cha nên
thành công trong học vấn.
Tôi mất 14 năm
làm lao động chân tay và vợ tôi 10 năm ngồi miệt mài bên bàn
máy may từ sáng đến
nửa đêm
nhưng
cuối cùng chúng
tôi rất hài ḷng khi
hai đứa con chúng tôi không phải đi trên “con đường đau khổ” như chúng
tôi.
Dân địa
phương ở tỉnh bang Québec
là người Québécois mà người Việt gọi trại là người
C̣i. Họ là hậu duệ của những di dân đến
từ Pháp cách nay bốn
thế kỷ thành ra giọng nói của họ khác với người Pháp ở chính quốc, tương
tự như gọng người miền Nam hay miền Trung so với giọng người miền Bắc nước ta. Khi tôi nói chuyện
với một người
dân địa phương
họ sửa giọng đúng
giọng Paris th́
tôi nghe được c̣n khi hai người dân địa phương
nói chuyện với nhau tôi chẳng nghe được
ǵ giống như tôi nghe hai người
Quảng Nam nói chuyện với nhau. Nữ sĩ Francoise Sagan (tác
giả cuốn Bonjour Tristesse) có lần
nói: giọng nói của người Québécois nghe buồn
cười, bà đă
bị dân Québec phản đối
dữ dội làm bà phải lên tiếng xin lỗi.
Nhưng phải công nhận rằng ở tỉnh bang Québec, nhứt là ở Montréal, người ta nói được hai thứ tiếng Anh và Pháp. Người di dân và con cháu họ lại c̣n nói được tiếng mẹ đẻ thành ra họ có lợi thế khi giao
dịch hay đi
làm. Ở các tỉnh bang khác ngoài Nouveau Brunswick, người
ta chỉ nói được
tiếng Anh. V́ vậy, qua các đời thủ tướng
của Canada, đa
phần họ xuất thân từ Québec. Thủ tướng
hiện nay của Canada: Justin Trudeau cũng như cha
ông ta (Pierre Trudeau, thủ tướng
nhiều nhiệm kỳ trong thế kỷ trước)
là người Québécois.
Năm 1989, Nguyễn Văn
Ba thường dược gọi là Ba Tô
(nhân vật chú ba Tô
trong phim truyện truyền h́nh ở Việt Nam sau 75) và một người
bạn tên Tâm ở chung đảo
với nó được định cư ở Québec. Ba Tô là người đi chung tàu với tôi. Nó ở Thủ Thiêm, hiền lành và chất phác. Hai đứa được một ông chủ trang trại ở Sherbrooke bảo lănh. Nếu chúng về đó sẽ phải làm việc ở nông trại cực khổ lắm. Tôi đi xe bus xuống Sherbrook bảo lănh chúng về Montréal. Tâm về ở với một người anh ruột, c̣n Ba Tô về ở với tôi. Để có chỗ rộng rải cho hai người,
tôi mướn một căn nhà khác 3 1/2 ở đường De L' Épée thuộc khu người
Grec, cũng
không xa chỗ làm của tôi.
Tôi dẫn Ba Tô đi
làm thẻ An Sinh
Xă Hội, thẻ Bảo Hiểm Sức Khỏe, mua thẻ đi métro. Ba Tô thuộc diện nhà nước
bảo lănh nhân đạo nên được cho tiền mua quần áo mới ở các tiệm bán quần áo, chả bù tôi
thuộc diện nhà thờ bảo lănh chỉ được
một con chiên nhà thờ dẫn xuống sous-sol nhà
thờ cho những quần áo cũ. Rồi tôi dẫn nó đi ghi danh học lớp COFI.
Canada là một đất nước rộng mênh
mông, đứng thứ hai sau nước
Nga, rộng hơn Trung Quốc và Hoa Kỳ và chỉ nhỏ hơn Châu Âu một chút. Diện tích Canada gần 10 triệu km2 (diện tích Việt Nam khoảng 330.000 km2) nghĩa là Canada 33 lần lớn hơn
Việt Nam. Dân số Canada chỉ có hơn 35 triệu người trong khi Việt Nam 97 triệu dân (gần gấp 3 lần dân số Canada). Từ đông sang
tây Canada nối liền Đại Tây Dương
với Thái B́nh Dương
và từ bắc xuống nam Canada nằm giữa Bắc Băng
Dương
và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Trong gấn 10 triệu km2 diện tích th́ các hồ thiên
nhiên chiếm khoảng 9%. Canada có 31.752 hồ rộng trên 3km2 trong đó có 561 hồ rộng hơn
100km2. Số hồ ở Canada
nhiều tổng số hồ c̣n lại trên thế giới
Thủ đô
của Canada là Ottawa nằm
trong tỉnh bang
Ontario. Cư dân đầu
tiên ở Canada là
người da đỏ (paléoaméricains) đến từ Á Châu qua một dăi đất
nổi ở eo biển Béring nối liền Nga cách đây
30.000 năm.
Hậu duệ của họ bây giờ được gọi là người
Canada gốc (autoctone)
thường sống trong các
khu dành riêng (réserve) và hưởng những ưu đăi đặc
biệt: được
cấp nhà ở, được
lănh tiền trợ cấp, được
miễn mọi thứ thuế...
Người
autoctone có gương
mặt giống người
Tàu và Việt Nam nhưng người
nào cũng
béo ph́ v́ họ ít hoạt động và ăn
thịt mỡ nhiều. Khi con gái
tôi làm ở thành phố Sept-Iles, miền
bắc Québec gần khu dành
riêng của người
autoctone họ gặp tôi họ nh́n tôi
thật lâu xem có phải là đồng chũng
của họ không, nhưng khi thấy tôi không béo ph́ như họ th́ họ biết tôi không phải là người như họ. Họ suốt ngày ở không và
luôn luôn uống rượu
nên tuổi thọ của họ rất thấp.
Canada là cường
quốc kinh tế đứng thứ 10 trên
thế giới ngang hàng với Nam Hàn và
Brazil dù dân số ít hơn hai nước đó. Canada ở trong top 10 nước có cuộc sống tốt đẹp nhứt trên thế giới bên cạnh các nước Bắc Âu, Thụy Sĩ,
Úc và Tân Tây Lan. Có nhiều năm Canada đứng đầu
top 10 đó.
Lưu
ư là Mỹ, Anh,
Pháp, Đức, Nhật chưa bao giờ có tên trong top 10 này. Ngân sách giáo dục và y tế ở Canada chiếm phần lớn ngân sách quốc gia. Trẻ em sinh
ra được nhà nước trợ cấp đến 18 tuổi. Trường
học được miễn phí đến
hết cấp phổ thông. Khi học cao đẳng
hay đại học sinh
viên được học bỗng và mượn tiền lăi nhẹ chỉ trả lại sau khi có việc làm. Người dân thất nghiệp được lănh trợ cấp thất nghiệp. Không t́m được việc làm, người
dân được hưởng trợ cấp xă hội. Ai bệnh được chữa bệnh miễn phí. Trên 65
tuổi th́ người
ta được lănh tiền già. Ai làm
việc lương thấp được nhà nước cho mướn nhà giá rẻ...
Ba Tô t́m được
việc làm nên dọn ra ở riêng.
Sau này, ngày đám
cưới của nó, Ba Tô có
mời vợ chồng tôi đến dự. Nhờ tính cần cù nên nó làm
contracteur may cũng
khấm khá. Tâm, bạn nó, có máu cờ bạc, mê Casino nên c̣n lận đận.
Ở Montréal
, Casino nằm trên đảo
Ste-Hélène ngay dưới cầu Jacques Cartier
nên người dân Montréal dễ lui tới. Ai có xe hơi
th́ chạy lên giữa cầu rồi quẹo xuống đó.
Người ta cũng
có thể sử dụng métro và xe
bus để tới đó. Trong Casino người
ta trông thấy rất nhiều dân đầu đen ( Hoa ,
Việt, Miên,
Lào) đến nỗi ngày Tết âm lịch, Casino có tổ chức múa lân mừng năm
mới. Nhưng
cũng
v́ đó
bao thảm cảnh xảy ra. Có nhiều ông chủ nhà
hàng ở phố Tàu bị phá sản. Có người thua nặng đến
phải nhảy cầu tự tử. Có kẻ giết người
cướp tiền để đánh bạc...Bao gia đ́nh
tan nát!
Hệ thống truyền thông: báo chí, radio, TV ở Canada
thời đó dù chưa có mạng Internet như bây
giờ nhưng cũng rất mau lẹ và chính
xác. Năm
1988, h́nh ảnh Ben Johnson,
lực sĩ chạy nước rút của Canada về nhứt ở giải 100 m trong
Thế Vận Hội Seoul trên
truyền h́nh làm nức ḷng dân Canada. Tiếc
thay, sau này anh ta bị tước
huy chương
vàng v́ đă
dùng thuốc kích
thích để thi đấu. Năm
1989, bao biến cố trọng đại
trên thế giới nhanh chóng được đưa lên sống động trên màn ảnh nhỏ. Từ h́nh ảnh một người
dân can đảm chận đường
tiến của xe tăng
tại quảng trường
Thiên An Môn ở Trung Quốc đến cảnh đập đổ bức tường ngăn
cách Đông
và Tây Bá Linh ở Đức.
Những h́nh ảnh sụp đổ như những con cờ domino của các nước xă hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và nhứt là ngày cuối cùng của vợ chồng nhà độc
tài Ceausescu ở Roumanie được
mọi người theo dơi như đang chứng kiến tại hiện trường.
Vụ thảm sát 14 nữ sinh viên tại trường Đại
Học Bách Khoa Montréal của
một thanh niên mang mặc
cảm tự ti v́
thua kém phái nữ ngày
6-12-1989 làm kinh hoàng người dân Montréal hiền hoà.
Để chuẩn bị đón rước
vợ con sắp qua tới, tôi đi
học lái xe. Hùng và Thiện
thay phiên tập lái cho tôi tại băi đậu xe bỏ trống gần nhà Thiện ở khu
Côte Des Neiges. Tôi c̣n nhớ ngày
tôi thi lấy bằng lái xe năm
1991 là ngày tổng thống Bush cha mở chiến dịch “Băo Sa Mạc” đánh
vào Irak.
Khiêm là bạn với Hùng ở đảo. Khiêm rời đảo
qua Canada trước tôi. Khi biết vợ chồng tôi từng mở quán ăn ở Việt Nam và vợ tôi là đầu bếp chuyên nghiệp nên Khiêm đề nghị tôi khi
nào vợ tôi
qua đây
sẽ hợp tác với chúng tôi mở một nhà hàng ở Montréal.
Khiêm bỏ vốn và chúng tôi bỏ công.
Khiêm sang tiệm Long Mỹ ở đường
Jean Talon và chị Mỹ chủ cũ của tiệm sẽ tạm thời giúp chúng tôi làm bếp
chính chờ vợ tôi qua.
Một hôm, tôi đang
làm việc ở Charcuterie Parisienne th́ văn pḥng hảng gọi tôi cho biết sở di trú báo tin vợ con
tôi được visa sang Canada đoàn tụ với tôi. Không nổi vui mừng nào hơn
sau gần 6 năm xa cách tôi sẽ được sum họp với gia đ́nh.
Hôm đi đón vợ con tôi nhằm đúng ngày 8/3 (ngày Quốc Tế Phụ Nữ) năm 1992, tôi nhờ anh Lê Tấn Lộc, bạn đồng
nghiệp đồng
thời là bạn ve chai ( “camarade de bouteille”) trước
75 và Hùng làm chung hăng lấy xe hơi đi với tôi lên phi trường Mirabel đón
vợ con tôi.
Nhớ lại ngày tôi
ra đi,
Lư, con trai lớn tôi mới vào lớp 6 trường
Khánh Hội 1, quận 4 và Lan, con gái tôi đang học lớp 2 mà nay đứa lớn đă 17 tuổi học lớp 11 trường Nguyễn Trăi và đứa
nhỏ 13 tuổi học lớp 8 trường Chi Lăng.
Từ phi trường về đến
Montréal, tôi mời mọi người vào nhà hàng Chim Sẻ của chúng tôi ăn
uống mừng ngày sum họp của gia đ́nh tôi. Tôi đă đổi
bảng hiệu Long Mỹ sang Chim Sẻ.
Sáu năm xa cách, đêm đầu
tiên gặp lại, vợ chồng tôi có biết bao
nhiêu điều để tâm sự. Hai đứa
con tôi v́ trái giờ giấc cũng
không ngủ được.
Sáng hôm sau, gă Tây C̣i ở tầng dưới chạy lên kiếm chuyện nói rằng chúng tôi làm ồn
hắn không ngủ được.
Trước đó,
nhiều lần hắn gỏ cửa pḥng tôi
than phiền tôi mở nhạc lớn quá. Bên cạnh pḥng tôi có
một anh người Hoa, từng du học ở đây, ở một ḿnh chỉ có một cái radio nhỏ mà cũng
bị gă Tây C̣i này chạy
lên kiếm chuyện. Nghe nói gă bị vợ bỏ, bị stress nặng nên trút nỗi hận t́nh lên những người lối xóm. Khi nghe
tôi kể lại, những người
làm chung hăng đề nghị tôi dẫn họ về nhà tôi nhậu nhẹt để nếu gă đó chạy lên, họ sẽ cho gă một bài học. Tôi từ chối v́ không muốn rắc rối.
V́ vợ con mới qua, tôi
không muốn họ bị sốc nên nói với chủ nhà tôi phải trả nhà để thuê chỗ khác dù
chưa
hết hợp đồng
thuê nhà . Chủ nhà thông
cảm nẻn thay v́ phải bồi thường
3 tháng tiền nhà, tôi chỉ trả một tháng để chủ nhà đăng báo t́m người
thuê.
Sáng ngày hôm
sau, chúng tôi dọn nhà về đường St-Zotique, cũng
không xa chỗ tôi làm.
Căn
nhà mới là 5 1/2 có 3
pḥng ngủ. Khiêm về ở chung với chúng tôi để chia bớt tiền nhà.
H́nh chụp vợ
chồng tôi năm 1993 ở nhà tại Montréal
Sau vài
ngày đi
làm giấy tờ và nghỉ ngơi, vợ tôi bắt đầu
ra nhà hàng làm bếp chính, Khiêm
làm phụ bếp và chạy bàn. Buổi chiều, từ hăng về tôi ghé
nhà hàng để phụ việc với hai người.
Tỉnh bang Québec có đa số dân nói
tiếng Pháp nên từ năm
1974 chính phủ tỉnh bang này ra sắc luật 101 công nhận Pháp Ngữ là ngôn ngữ chính ở đây.
Tất cả mọi giao dịch bằng miệng hay trên giấy tờ phải ưu
tiên cho tiếng Pháp. Trên bảng hiệu, nếu bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp,
th́ hàng chữ tiếng Pháp được viết phía trên và
to hơn
hàng chữ tiếng Anh phía dưới. Chỉ có con
cái những người
nói tiếng Anh mới được cho học trường
Anh, c̣n lại phải học trường
Pháp.
Muốn vào đại học ở Québec học sinh phải qua 13 năm
chứ không phải 12 năm
như ở Việt Nam: 6 năm tiểu học, 5 năm trung học và 2 năm
CÉGEP (Collège d’enseignement général et professionel). Nếu ai muốn học chuyên ngành th́ phải
học 3 năm ở CÉGEP để có thể trở thành cán sự (technicien).
Xong CÉGEP học sinh theo khoa học thuần tuư ( sciences pures) ghi tên vào các ngành toán hay kỷ thuật, học sinh theo khoa học về sức khoẻ (sciences de la santé) ghi tên vào y khoa, nha khoa, dược
khoa, thú y hay điều dưỡng. Các trường đại học chọn sinh viên theo thành tích học
vấn ở trung học và CÉGEP.
Gay go nhứt cho những ai muốn học thành bác sĩ. Không những phải có điểm cao mà c̣n phải qua một cuộc phỏng vấn. Ngoài ra các
trường đại học c̣n đưa ra một tiêu chuẩn chọn lựa theo thống kê gọi là cote Z hay
cote R. Tôi được các ông bác sĩ Việt Nam khuyên cho con ghi tên ở những trường CÉGEP dễ để có điểm cao nhứt trong trường
th́ được cote Z cao, như vậy chắc chắn được nhận vào y khoa.
Tôi nghe lời cho con gái
tôi vào học CÉGEP
Rosemont là một trường
dễ thay v́ vào Bois De Boulogne hay Maisonneuve là các trường
khó. Không ngờ năm con gái tôi
vào đại học th́ người
ta đổi cote Z sang cote R, theo đó ai học trường
dễ sẽ bị trừ điểm. Thành ra con gái tôi không vào được
y khoa đành
vào nha khoa. Nhưng
may mắn thay, với ngành này nó đă đạt được thành công trong nghề nghiệp.
Một ngẫu nhiên, tôi và
hai con tôi đều từng cùng học ở trường đại
học Montréal. Trường này toạ lạc trên đồi Mont Royal nên phong cảnh
rất đẹp. Nhưng
vào mùa đông, đường
dốc bị đóng băng nên khi di chuyển từ pavillon
này sang pavillon khác rất nguy hiểm v́ trơn
trợt. Tôi đă té một lần trên đó bị trầy trụa cả mặt mày.
Trước đây, ở tỉnh bang Québec,
giáo dục là công việc của Giáo Hội Công Giáo. V́ vậy. Trước
năm
1998, Uỷ Ban Công
Giáo Học Đường
Thành Phố Montréal
CÉCM (Commission des écoles Catholiques de Montréal) quản lư tất cả cá trường tiểu học, trung học, trường
người lớn và trường
dạy nghề. Từ ngày 1/7 năm
1998 Uỷ Ban
này đổi thành Uỷ Ban Học Đường Thành Phố Montréal
CSDM (Commission scolaire de Montréal).
Tôi dẫn hai con tôi đến văn pḥng CÉCM xin ghi danh đi học. Hai đứa được nhận vào lớp acceuil ở trường trung học Louis-Joseph-Papineau trên đường Louvain Est cách nhà chúng tôi khoảng 45 phút đi xe bus. Ngày đầu tiên tôi dắt chúng đến trường cho biết. Trên xe bus tôi đếm số trạm dừng cho chúng nhớ. Hôm sau hai đứa tự đi học và tôi không quên viết địa chỉ trên một miếng gi