Chương 10- Canada: xứ
lạnh, t́nh nồng
Tôi ở trại
tỵ nạn được một năm rưởi
th́ được định cư ở Canada. Đáng lẽ tôi đi Mỹ theo diện cựu
quân nhân nhưng v́
tôi có em gái ở Canada
nên phải
sang đó
theo diện đoàn tụ gia đ́nh. Phụng,
em gái tôi đă ở Montréal từ năm 1985 nhờ hội nhà thờ bảo lănh tôi sang đó.
Giữa tháng 4 năm 1988, tôi đến thành phố Montréal. Ở đây, người
ta vừa
trải
qua một
mùa đông
lạnh lẽo,
cây cối
vẫn c̣n trơ cành
trụi
lá. Em tôi nói với
tôi rằng
Canada được
mệnh danh là xứ lạnh t́nh nồng
v́ nơi đây
tuy khí hậu
lạnh lẽo,
nhưng người
dân ở đây dành cho người
mới tới
một t́nh cảm
nồng ấm,
không phân biệt
màu da hay tiếng
nói như một
số nơi khác
trên thế giới. Canada chủ trương một xă hôi đa văn hoá. Ở đây,
hai cộng đồng văn hoá lớn
nhứt
là cộng đồng nói tiếng Anh và cộng đồng nói tiếng Pháp. Hai cộng đồng này đă h́nh thành theo ḍng lịch
sử. Theo chân người
Tây Ban Nha, người
Pháp chiếm
vùng đất
này đầu
tiên. Nhưng sau đó
người
Anh với
thế mạnh của
hải quân đă
chiến
thắng
người
Pháp để làm
chủ vùng đất này. Sau khi Hoa Kỳ dành được độc lập cho đất
nước từ tay đế quốc Anh, những
người
trung thành với
hoàng gia Anh chạy
sang Canada làm cho cộng đồng người nói tiếng Anh càng đông
hơn.
Vế sau
có những
cộng đồng
người
Hoa, Ukraine, Ư, Hy Lạp,
Nam Mỹ, Ấn Độ,
Việt
Nam và Đông
Âu đi dân
sang đây
sau những
biến động từng thời
kỳ trên thế giới.
Cộng đồng người nói tiếng Pháp tập
trung đông đảo nhứt ở hai
tỉnh Québec và Noveau Brunswick. C̣n cộng đồng
người
Anh đông đảo hơn tập trung ở các tỉnh
khác. Tiếng
Anh và tiếng
Pháp là hai ngôn ngữ chính
thức
của Canada.
Năm
1980 dưới thời
thủ hiến René Lévesque, và năm
1995 dưới thời
thủ hiến Jacques Parizeau, đă
có hai cuộc
trưng cầu
dân ư ở Québec để giành độc
lập nhưng đều
thất
bại.
Vừa
tới Canada, ngay ngày hôm sau tôi lên sở đi trú
làm đơn bảo
lănh vợ và
hai con c̣n kẹt
lại ở Việt Nam.
Tôi về ở với vợ chồng em gái tôi trên đường Berri gần ga métro (ga xe điện ngầm) Crémazie. Hai đưa quen nhau trên đảo tỵ nạn nhưng khi qua đến
Montréal mới làm đám cưới.
Em rể tôi
có đầy đủ gia đ́nh ở đây
c̣n em gái tôi một thân, một ḿnh nên phải nhờ người quen đứng chủ hôn.
Một tuần sau ngày tôi
tới, em gái tôi sanh đứa con gái đầu
ḷng ở bệnh vện Juif khu Côte
des Neiges. Từ nhỏ đă
học tiếng Pháp,
lên đại học sử dụng tiếng Pháp làm chuyển ngữ và thời gian ở trại tỵ nạn, tôi là hiệu trưởng trường Pháp Văn,
hàng ngày tiếp xúc với cố vấn người Pháp nên tôi không bỡ ngỡ khi hội
nhập vào xă hội ở đây. Tôi có thể đi
thăm
em gái tôi bằng métro và xe
bus dễ dàng dù
chỉ mới tới đây có vài ngày.
Tôi ghi danh học COFI (Centre d’orientation et de francisation des immigrants) tức là Trung tâm hướng nghiệp và dạy tiếng Pháp cho di
dân. Thời đó, học COFI được lănh khoảng 350 đô mỗi tháng gồm tiền sinh hoạt và tiền xe. Thời gian học từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Tôi đă
biết tiếng Pháp nên cô giáo già thường nhờ tôi dạy thế cho cô mỗi khi cô bận. Em rể tôi dẫn tôi đi
làm ca hai (từ 4 giờ chiều đến
12 giờ đêm) cho một hảng giặt quần jean. Lương tối thiểu chỉ có 4,50 đô một giờ nghĩa
là 720 đô
một tháng cộng tiền COFI cho là 1070 đô một tháng là khá
nhiều trong năm 1988 khi mà 100 lít
xăng
cũng
như thẻ tháng đi
métro và bus chỉ có
19 đô.
Buổi chiều, khi xong lớp COFI tôi nhảy lên métro rồi chuyển qua xe
bus đi
tới chỗ làm. Công
việc tôi ở đó
là bỏ vào máy
giặt một xấp quần jean Trong máy giặt đă có sẵn các ḥn sỏi. Khi cho máy
chạy, các viên sỏi làm cho quần bị cà thành những đốm
trắng, Mode thời đó
và cả bây giờ là quần jean phải có lốm đốm
trắng. Nhưng lúc đó chưa có mode mặc quần jean rách như bây giờ! Giặt xong, tôi bỏ quần vào máy sấy để sấy khô rồi đưa
qua nhóm thợ ủi. Cơm
chiều em gái tôi nấu cả hai phần để em rể tôi mang
vào hăng, hai anh em sẽ ăn vào giờ break. Tan ca, tôi và em rể phải nhanh chân nhảy lên xe
bus để kịp chuyển đi
chuyến
métro chót về nhà.
Ở tỉnh Québec, nhứt là ở Montrẻal, những người ở nhà thuê
có truyền thống thích thay đổi chỗ ở. Hàng năm, cứ vào đầu tháng 7, nhằm ngày lễ Quốc Khánh Canada,
họ trả nhà đi mướn
chỗ khác. Có
khi chỗ mới tệ hơn chỗ cũ hoặc giá thuê mắc hơn nhưng họ vẫn thích đổi
chỗ ở, Mỗi lần dọn nhà, họ bỏ những vật dụng cũ như salon,
bàn, tủ , ghế, giường. nệm cũ ra đường để khi đến
chỗ mới sắm đồ mới. Những người
nghèo hơn
hay những di dân mới đến không có tiền mua sắm cứ việc đến mang về dùng,
Vợ chồng em tôi cũng dọn nhà khác vào đầu tháng 7 năm đó, nhưng không phải bắt chước
những người
Québécois (dân địa phương ở Québec) mà để mướn
một căn
nhà rộng rải hơn,
có hai pḥng ngủ để tôi
có chỗ ngủ thay v́ ngủ ngoài
pḥng khách như ở chỗ cũ. Ở đây,
người ta tính sức chứa một căn hộ theo số pḥng của nó, Pḥng ngủ, pḥng khách,
pḥng ăn đều
tính là đơn
vị, c̣n nhà tắm là
nửa đơn
vị. Căn
hộ nào cũng
phải có pḥng ngủ và nhà tắm. Như vậy, một căn hộ nhỏ nhứt là 11/2 nghĩa
là có một pḥng ngủ và một nhà tắm. Căn
hộ 21/2 có một pḥng ngủ, một pḥng ăn và một nhà tắm. Căn hộ 31/2 có một pḥng ngủ, một pḥng khách,
một pḥng ăn
và một nhà tắm. Căn
hộ 41/2 có hai pḥng ngủ,
một pḥng khách, một pḥng ăn và một nhà tắm. Thời đó
giá mướn một căn hộ như sau:
150 đô
cho căn
hộ 11/2, 250 đô cho căn
hộ 21/2, 350 đô cho căn
hộ 31/2, 450 đô cho căn
hộ 41/2...Giá thuê nhà ngày nay mắc
hơn
nhiều; một căn
hộ 41/2 giá ít nhứt
là 800 đô.
Nhà mới chúng tôi là 41/2, ở tầng trên của một nhà hàng Ư trên đường Jarry cách
xa chỗ ở cũ chừng 3km. Một điều cần lưu ư là khi mua hay
thuê nhà không nên ở gần nhà hàng hay chợ v́ những nơi đó sẽ có rất nhiều chuột .
Một thời gian
sau, để gia đinh
em gái tôi có không khí riêng tư , tôi thuê một
căn
hộ 21/2 ở đường
Drolet gần chợ trái cây Jean Talon ở riêng. Ỏ đây
rất tiện v́ gần chợ Á Châu:
chợ Asie, chợ Pnom Penh và ga métro Jean Talon.
Tôi gởi thơ về Việt Nam cho vợ tôi để gởi qua cho tôi
những giấy tờ hộ tịch và những văn
bằng của tôi ở Việt Nam. Tôi nhờ thông dịch viên hữu thệ dịch những giấy tờ đó. Tôi làm équivalence
bằng tốt nghiệp đại học để ghi
danh học bằng Giáo Dục So Sánh Và Quốc Tế (Diplôme
de l'éducation comparée et internationale) ở trường đại
học Montréal. Đồng thời tôi đi phỏng vấn ở sở giáo dục thành phố để xin
giấy phép dạy học. Về việc học, tôi phải bỏ dỡ dang nữa chừng v́ khi vợ con qua tới, tôi phải lo sinh kế cho
gia đ́nh.
Tôi được sở giáo dục cấp giấy phép dạy trung học nhưng
khi nộp đơn vào các Commission
Scolaire xin việc th́ được
trả lời chờ đó, khi nào có chỗ sẽ nhận. Th́ ra lúc đó trong ngành giáo dục
không có ai bỏ chỗ. Sau này, thời thủ tướng Lucien Bouchard, chính phủ có
chính sách cho giáo chức nghỉ hưu
sớm (retraite anticipée) th́ có chỗ trống nhiều nhưng lúc đó tôi đă gần 60 tuổi rồi.
Khi tôi ở riêng được vài tháng th́ tôi bị mất việc ở hăng quần jean. Tôi chỉ c̣n lănh được có 350 đồng
của COFI trong khi tiền
nhà là 250 đô,
mỗi tháng tôi gởi về cho vợ con
100 đô
và mẹ tôi
50 đô
vá c̣n tiền sinh hoạt của tôi: tiền chợ, tiền xe bus... Tôi không biết
xoay sở làm
sao đây?
Thế là mỗi ngày
tôi đều mua một tờ báo Journal De Montréal để t́m việc làm. Thời đó Internet chưa phát triển nên báo nào cũng
có vài chục trang dành
cho mục rao vặt: mua, bán, cho thuê nhà cửa,
xe cộ, sang tiệm, cần người
làm...Ngày nay, có nhiều tờ báo phải ngưng không ra phiên bản in như tờ báo La Presse có lịch
sử hàng mấy trăm năm ở Québec v́ không c̣n nhiều độc giả và khách
hàng đăng
trong các mục quảng cáo và rao vặt chẳng c̣n bao nhiêu.Tờ Journal
De Montréal mà đối tượng độc giả b́nh dân
hơn
vẫn tiếp tục ra báo giấy nhưng mục rao vặt thu gọn có một vài trang.
Nhờ mục rao vặt cần người
của tờ Journal
De Montréal, tôi t́m được việc làm ở hảng sản xuất thịt nguội Charcuterie
Parisienne ở đường
Marconi không xa nơi
tôi ở. Hăng này là một công ty của gia đ́nh người
Thụy Sĩ gốc Do Thái di dân sang Québec thành lập
từ năm
1940. Người sáng lập là cha của ông Jacques (chủ của tôi), ban đầu ông ta mở một tiệm nhỏ làm thịt nguội: pâté, jambon, saussisse...giao cho các nhà hàng gần đó
bằng xe đạp. Dần đần,
tiệm phát triển thành một thương hiệu nổi tiếng có khách hàng là các siêu thị,
nhà hàng lớn, khách sạn...ở Montréal,
Québec, toàn Canada và cả bên Mỹ. Tuy không lớn như thương hiệu Mapple Leaf nhưng
thịt nguội của Charcuterie
Parisienne ngon hơn
v́ đa
số sản phẩm làm bằng thủ công.
Nhân viên sản xuất ở đây
không đông
và đa
số là di dân, nhiều
nhứt đến
từ Âu Châu. Lúc tôi làm ở đó th́ có ba
người Bồ Đào Nha, hai người
Québécois, một người
Tây Ban Nha, một người
Croatie,một người
Pháp và hai người Á Châu là tôi và một
người Lào gốc Hoa. Nhân
viên văn
pḥng và tiếp thị đều là người Québécois.Thời đó di dân Nam Mỹ và Trung Mỹ đến
Québec rất đông nhưng ông Jacques không mướn
họ v́ biết bản chất họ lười biếng và thường ăn cắp vặt. Sau
này, ông Jacques nhờ tôi giới thiệu thêm hai người
Việt khác là người
quen của tôi là:
Hùng, ở chung trại tỵ nạn với tôi và Sơn, quen với Vũ cùng
học COFI với tôi.
Tôi và anh
chàng người Lào làm ở khâu đóng gói hàng, Sơn rửa khuông jambon và Hùng làm vệ sinh
tổng quát. Bốn người
Á Châu chúng tôi làm lao động phổ thông nên
lương
thấp hơn nhóm người đến
từ Âu Châu v́ họ có nghề làm thịt.
Ai cũng biết bản chất người Do Thái là keo kiệt.
Lúc cha của ông Jacques mất, ông rao bán nhà của
cha ḿnh. Ông ta hỏi tôi có cần một bộ salon c̣n tốt ở nhà cha ông không. Lúc đó vợ con tôi sắp được qua đây
nên tôi trả lời cần. Ông ta nói
ông sẽ bán rẻ cho tôi. Tôi trả lời rằng tôi không có
tiền mua và nhủ thầm: ông
này đúng
là "trùm ṣ", đồ cũ nếu không cho th́ quăng
ra đường có đâu đ̣i bán cho ḿnh. Mấy bữa sau, ông
Jacques sai tôi và anh chàng Lào đi khuân bộ salon lên
xe chở về nhà con gái lớn
của ông ta.
Tôi làm việc ở đây th́ không có ǵ nặng nhọc, nhưng tủi thân nghĩ v́
ḿnh ở "bên
thua cuộc" (nói
theo cách của nhà báo Osin
Huy Đức, tác giả cuốn "Bên thắng cuộc") nên từ một người làm việc trí óc có cuộc sống phong lưu phải lưu
vong sang xứ người
làm lao động chân tay lănh đồng lương tối thiểu. Mỗi buổi sáng
trên đường từ nhà đến
chỗ làm tôi tự nói thầm: đây là "con đường đau khổ" (tựa một cuốn tiểu thuyết của Ngamà tôi đă đọc
trong thời gian ở trại cải tạo). Nhưng tôi tự an ủi, không riêng
tôi nhiều người
Việt khác cũng ở trong hoàn cảnh như tôi. Tôi biết ở Montréal
có một ông là bác sĩ, giáo sư trường đại
học y khoa Sài G̣n là thầy
dạy vợ ông, cũng là bác sĩ, đă phải làm lao động chân tay như cọ rửa
toilette để nuôi vợ ông học lại lấy bằng bác sĩ hành nghề tại đây. Tôi thường
gặp ông lang thang như người thất chí trong
mall dưới phố.
Tôi tự hứa với ḿnh sẽ "hy
sinh đời bố để củng cố đời
con". Sau này khi các con tôi qua đây, dù làm việc cực khổ đến
mấy tôi cũng
phải lo cho các
con tôi có một chỗ đứng vinh dự trong xă
hội này.
Thời đó
khu Côte Des Neiges là nơi tập trung nhiều người Việt nhứt. Cuối tuần nghỉ việc Hùng thường lấy xe chở tôi và Sơn
xuống chơi nhà Thiện, người ở chung trại tỵ nạn với Hùng. Thiện và vợ tên Thẩm và đứa con đẻ ở đảo được đặt
tên là Viễn Xứ thuê nhà bên cạnh
nhà của chị ḿnh, là một contracteur
may.
Trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước
có thể nói
Montréal là trung tâm may mặc của thế giới. Hầu hết những gia đ́nh Việt Nam ở đây làm nghề may gia công. Người nào làm nghề may lâu năm
kư hợp đồng
với các hảng may lớn lănh quần áo đă cắt sẵn về giao lại cho nhiều người may tại nhà. Xong, họ thu về làm
finition nghĩa
là làm khuy, đơm
nút và ủi. Họ, được gọi là
contracteur may, thuê một chỗ rộng rải, mua một số máy may, máy làm khuy, đơm nút và máy ủi. Tại chỗ, họ mướn một người
may giỏi để may mẫu, người làm khuy, đơm
nút, cắt chỉ và ủi. Thường
những người
già phụ trách cắt chỉ lănh lương thấp nhứt cón những người thợ ủi phải là những thanh niên khỏe mạnh lănh lương
cao nhứt. Người
may ở nhà phải sắm ít nhứt một máy plain
(may hai chỉ) và một máy overlock (may 3 hoặc
5 chỉ) để hành
nghề. Hiệu máy tốt nhứt là Juki của Nhật. Máy plain phải là máy tự động cắt chỉ mới may
nhanh được. Mỗi lần nhận hàng, người
may gia công phải may vài trăm cái áo hay quần trong một tuần hay mười ngày. Người may gia công nếu chưa có nhà riêng th́ phải thuê nhà ở tầng trệt hay sous sol
(tầng hầm) để hành nghề tránh
gây ồn ào cho những người bên cạnh.
Sau này, Thiện mở contracteur
may và vợ tôi may
gia công cho Thiện. Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, bọn tư bản v́ lợi nhuận tung ra sách lược "toàn cầu hóa"
công nghiệp để đem hăng xưởng
sang những nước đang phát triển ở Nam Mỹ và Á Châu, nhứt
là Trung Quốc và Ấn Độ để lợi dụng giá nhân công rẻ. Hậu quả, Montréal mất địa vị thủ đô
may mặc của thế giới. Nghề may gia
công ở đây xuống dốc v́ giá công
may rẻ mạt, không đủ sống. Rất nhiều người
bỏ nghề.
Trước đây, ở Montréal có hai nghề thông dụng của người Việt Nam ngoài việc đi
làm công ở các hảng xưởng là nhà hàng và may gia công. Nghề may đi xuống làm nhà hàng ít khách. Một
số người trong hai ngành nghề này
v́ cuộc sống đổ qua nghề bất hợp pháp
:"trồng cỏ" (trồng cần sa). Họ mướn
một căn
nhà, hợp đồng
với những tổ chức tội phạm ma túy, thường
là người Ư để trồng cần sa tại nhà. V́ cây cần sa cần nhiều ánh sáng nên họ phải sử dụng điện rát nhiều để thăp sáng nên thường
bị bại lộ v́ công ty Hydro-Québec khám phá số điện tiêu thụ quá mức b́nh thường nên nghi ngờ và báo
cho cảnh sát. Thế là họ phải vào tù. Nay chính phủ Canada
của thủ tướng
Justin Trudeau đă
hợp thức hóa việc sử dụng cần sa và cũng như rượu,
cần sa được nhà nước độc quyền kinh doanh!
Nghề "trồng cỏ"
nay đă
vào tay nhà nước và một lần nữa có một số người
Việt bị "thất nghiệp".
Canada là một liên bang gồm 10 tỉnh bang và hai lănh thổ.
Québec là tỉnh bang rộng nhứt nhưng Ontario là tỉnh bang đông
dân nhứt. Mỗi tỉnh bang được
tự trị trong
liên bang tương
tự như một tiểu bang trong Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nhưng theo chế độ đại nghị như bên Anh. Sau một cuộc bầu cử , đảng
nào có nhiều người đắc
cử nhứt th́ chủ tịch đảng đó làm thủ tướng (liên bang) hay thủ hiến (tỉnh bang). Liên
bang có quốc hội gồm hai viện: thượng viện và hạ viện. Dân biểu hạ viện do dân bầu c̣n thượng
nghi sĩ do
thủ tướng
chỉ định.
Quốc hội tiểu bang chỉ có một viện mà dân biểu do dân bầu. Liên bang giao cho tỉnh
bang nhiều quyền hạn nhứt là tỉnh bang Québec,
nơi
cộng đồng nói tiếng Pháp đông nhứt. Canada nằm trong Khối Thịnh Vượng
Chung nên thủ tướng
liên bang chỉ định
một người làm Toàn Quyền Canada thay mặt nữ hoàng Anh
và thủ hiến tỉnh bang chọn một phó Toàn Quyền. Chức vụ Toàn Quyền hoặc phó Toàn Quyền chỉ có tính cách tượng trưng trong nghi lễ.
Ba thành phố lớn nhứt ở Canada là
Toronto thuộc tỉnh bang Ontario, Montréal thuộc
tỉnh bang Québec và Vancouver thuộc
tỉnh bang Colombie Britanique. Người Viêt tập trung đông đảo
nhứt ở ba thành phố đó. Theo giáo sư Lâm Văn Bé trong bài biên khảo: “Diện mạo người Việt tại Canada từ ngày mới lập cư đến
năm
2016” số trí thức Việt Nam tập trung đông đảo
nhứt là ở tỉnh bang
Québec đặc biệt là ở Montréal. Tổng số người Việt ở Montréal năm
2016 là 38.660 người mà trong đó
có 530 bác sĩ,
280 nha sĩ và
150 dược sĩ (theo
BS Từ Uyên). Tỷ lệ người
Việt có bằng đại học và hậu đại học ở tỉnh bang Québec
cũng
cao bằng dân bản xứ và gấp đôi
người Việt ở các tỉnh bang đông người
Việt như Ontario,
Colombie Britanique và Alberta.
Có thể giải thích là thế hệ thứ nhứt của những người
nhập cư Việt ở Canada là
những người được đào tạo trong hệ thống giáo dục ở miền Nam trước
75 thông thạo tiếng Pháp, nhứt là những người có tŕnh độ đại học phải dùng chuyển ngữ tiếng Pháp trong học tŕnh (đặc biệt là các bác sĩ) nên họ chọn tỉnh bang Québec. Dù đa số các người đó không có cơ hội sử dụng lại ngành nghề chuyên môn của ḿnh nhưng con cháu họ thừa kế gen của ông cha nên
thành công trong học vấn.
Tôi mất 14 năm
làm lao động chân tay và vợ tôi 10 năm ngồi miệt mài bên bàn
máy may từ sáng đến
nửa đêm
nhưng
cuối cùng chúng
tôi rất hài ḷng khi
hai đứa con chúng tôi không phải đi trên “con đường đau khổ” như chúng
tôi.
Dân địa
phương ở tỉnh bang Québec
là người Québécois mà người Việt gọi trại là người
C̣i. Họ là hậu duệ của những di dân đến
từ Pháp cách nay bốn
thế kỷ thành ra giọng nói của họ khác với người Pháp ở chính quốc, tương
tự như gọng người miền Nam hay miền Trung so với giọng người miền Bắc nước ta. Khi tôi nói chuyện
với một người
dân địa phương
họ sửa giọng đúng
giọng Paris th́
tôi nghe được c̣n khi hai người dân địa phương
nói chuyện với nhau tôi chẳng nghe được
ǵ giống như tôi nghe hai người
Quảng Nam nói chuyện với nhau. Nữ sĩ Francoise Sagan (tác
giả cuốn Bonjour Tristesse) có lần
nói: giọng nói của người Québécois nghe buồn
cười, bà đă
bị dân Québec phản đối
dữ dội làm bà phải lên tiếng xin lỗi.
Nhưng phải công nhận rằng ở tỉnh bang Québec, nhứt là ở Montréal, người ta nói được hai thứ tiếng Anh và Pháp. Người di dân và con cháu họ lại c̣n nói được tiếng mẹ đẻ thành ra họ có lợi thế khi giao
dịch hay đi
làm. Ở các tỉnh bang khác ngoài Nouveau Brunswick, người
ta chỉ nói được
tiếng Anh. V́ vậy, qua các đời thủ tướng
của Canada, đa
phần họ xuất thân từ Québec. Thủ tướng
hiện nay của Canada: Justin Trudeau cũng như cha
ông ta (Pierre Trudeau, thủ tướng
nhiều nhiệm kỳ trong thế kỷ trước)
là người Québécois.
Năm 1989, Nguyễn Văn
Ba thường dược gọi là Ba Tô
(nhân vật chú ba Tô
trong phim truyện truyền h́nh ở Việt Nam sau 75) và một người
bạn tên Tâm ở chung đảo
với nó được định cư ở Québec. Ba Tô là người đi chung tàu với tôi. Nó ở Thủ Thiêm, hiền lành và chất phác. Hai đứa được một ông chủ trang trại ở Sherbrooke bảo lănh. Nếu chúng về đó sẽ phải làm việc ở nông trại cực khổ lắm. Tôi đi xe bus xuống Sherbrook bảo lănh chúng về Montréal. Tâm về ở với một người anh ruột, c̣n Ba Tô về ở với tôi. Để có chỗ rộng rải cho hai người,
tôi mướn một căn nhà khác 3 1/2 ở đường De L' Épée thuộc khu người
Grec, cũng
không xa chỗ làm của tôi.
Tôi dẫn Ba Tô đi
làm thẻ An Sinh
Xă Hội, thẻ Bảo Hiểm Sức Khỏe, mua thẻ đi métro. Ba Tô thuộc diện nhà nước
bảo lănh nhân đạo nên được cho tiền mua quần áo mới ở các tiệm bán quần áo, chả bù tôi
thuộc diện nhà thờ bảo lănh chỉ được
một con chiên nhà thờ dẫn xuống sous-sol nhà
thờ cho những quần áo cũ. Rồi tôi dẫn nó đi ghi danh học lớp COFI.
Canada là một đất nước rộng mênh
mông, đứng thứ hai sau nước
Nga, rộng hơn Trung Quốc và Hoa Kỳ và chỉ nhỏ hơn Châu Âu một chút. Diện tích Canada gần 10 triệu km2 (diện tích Việt Nam khoảng 330.000 km2) nghĩa là Canada 33 lần lớn hơn
Việt Nam. Dân số Canada chỉ có hơn 35 triệu người trong khi Việt Nam 97 triệu dân (gần gấp 3 lần dân số Canada). Từ đông sang
tây Canada nối liền Đại Tây Dương
với Thái B́nh Dương
và từ bắc xuống nam Canada nằm giữa Bắc Băng
Dương
và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Trong gấn 10 triệu km2 diện tích th́ các hồ thiên
nhiên chiếm khoảng 9%. Canada có 31.752 hồ rộng trên 3km2 trong đó có 561 hồ rộng hơn
100km2. Số hồ ở Canada
nhiều tổng số hồ c̣n lại trên thế giới
Thủ đô
của Canada là Ottawa nằm
trong tỉnh bang
Ontario. Cư dân đầu
tiên ở Canada là
người da đỏ (paléoaméricains) đến từ Á Châu qua một dăi đất
nổi ở eo biển Béring nối liền Nga cách đây
30.000 năm.
Hậu duệ của họ bây giờ được gọi là người
Canada gốc (autoctone)
thường sống trong các
khu dành riêng (réserve) và hưởng những ưu đăi đặc
biệt: được
cấp nhà ở, được
lănh tiền trợ cấp, được
miễn mọi thứ thuế...
Người
autoctone có gương
mặt giống người
Tàu và Việt Nam nhưng người
nào cũng
béo ph́ v́ họ ít hoạt động và ăn
thịt mỡ nhiều. Khi con gái
tôi làm ở thành phố Sept-Iles, miền
bắc Québec gần khu dành
riêng của người
autoctone họ gặp tôi họ nh́n tôi
thật lâu xem có phải là đồng chũng
của họ không, nhưng khi thấy tôi không béo ph́ như họ th́ họ biết tôi không phải là người như họ. Họ suốt ngày ở không và
luôn luôn uống rượu
nên tuổi thọ của họ rất thấp.
Canada là cường
quốc kinh tế đứng thứ 10 trên
thế giới ngang hàng với Nam Hàn và
Brazil dù dân số ít hơn hai nước đó. Canada ở trong top 10 nước có cuộc sống tốt đẹp nhứt trên thế giới bên cạnh các nước Bắc Âu, Thụy Sĩ,
Úc và Tân Tây Lan. Có nhiều năm Canada đứng đầu
top 10 đó.
Lưu
ư là Mỹ, Anh,
Pháp, Đức, Nhật chưa bao giờ có tên trong top 10 này. Ngân sách giáo dục và y tế ở Canada chiếm phần lớn ngân sách quốc gia. Trẻ em sinh
ra được nhà nước trợ cấp đến 18 tuổi. Trường
học được miễn phí đến
hết cấp phổ thông. Khi học cao đẳng
hay đại học sinh
viên được học bỗng và mượn tiền lăi nhẹ chỉ trả lại sau khi có việc làm. Người dân thất nghiệp được lănh trợ cấp thất nghiệp. Không t́m được việc làm, người
dân được hưởng trợ cấp xă hội. Ai bệnh được chữa bệnh miễn phí. Trên 65
tuổi th́ người
ta được lănh tiền già. Ai làm
việc lương thấp được nhà nước cho mướn nhà giá rẻ...
Ba Tô t́m được
việc làm nên dọn ra ở riêng.
Sau này, ngày đám
cưới của nó, Ba Tô có
mời vợ chồng tôi đến dự. Nhờ tính cần cù nên nó làm
contracteur may cũng
khấm khá. Tâm, bạn nó, có máu cờ bạc, mê Casino nên c̣n lận đận.
Ở Montréal
, Casino nằm trên đảo
Ste-Hélène ngay dưới cầu Jacques Cartier
nên người dân Montréal dễ lui tới. Ai có xe hơi
th́ chạy lên giữa cầu rồi quẹo xuống đó.
Người ta cũng
có thể sử dụng métro và xe
bus để tới đó. Trong Casino người
ta trông thấy rất nhiều dân đầu đen ( Hoa ,
Việt, Miên,
Lào) đến nỗi ngày Tết âm lịch, Casino có tổ chức múa lân mừng năm
mới. Nhưng
cũng
v́ đó
bao thảm cảnh xảy ra. Có nhiều ông chủ nhà
hàng ở phố Tàu bị phá sản. Có người thua nặng đến
phải nhảy cầu tự tử. Có kẻ giết người
cướp tiền để đánh bạc...Bao gia đ́nh
tan nát!
Hệ thống truyền thông: báo chí, radio, TV ở Canada
thời đó dù chưa có mạng Internet như bây
giờ nhưng cũng rất mau lẹ và chính
xác. Năm
1988, h́nh ảnh Ben Johnson,
lực sĩ chạy nước rút của Canada về nhứt ở giải 100 m trong
Thế Vận Hội Seoul trên
truyền h́nh làm nức ḷng dân Canada. Tiếc
thay, sau này anh ta bị tước
huy chương
vàng v́ đă
dùng thuốc kích
thích để thi đấu. Năm
1989, bao biến cố trọng đại
trên thế giới nhanh chóng được đưa lên sống động trên màn ảnh nhỏ. Từ h́nh ảnh một người
dân can đảm chận đường
tiến của xe tăng
tại quảng trường
Thiên An Môn ở Trung Quốc đến cảnh đập đổ bức tường ngăn
cách Đông
và Tây Bá Linh ở Đức.
Những h́nh ảnh sụp đổ như những con cờ domino của các nước xă hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và nhứt là ngày cuối cùng của vợ chồng nhà độc
tài Ceausescu ở Roumanie được
mọi người theo dơi như đang chứng kiến tại hiện trường.
Vụ thảm sát 14 nữ sinh viên tại trường Đại
Học Bách Khoa Montréal của
một thanh niên mang mặc
cảm tự ti v́
thua kém phái nữ ngày
6-12-1989 làm kinh hoàng người dân Montréal hiền hoà.
Để chuẩn bị đón rước
vợ con sắp qua tới, tôi đi
học lái xe. Hùng và Thiện
thay phiên tập lái cho tôi tại băi đậu xe bỏ trống gần nhà Thiện ở khu
Côte Des Neiges. Tôi c̣n nhớ ngày
tôi thi lấy bằng lái xe năm
1991 là ngày tổng thống Bush cha mở chiến dịch “Băo Sa Mạc” đánh
vào Irak.
Khiêm là bạn với Hùng ở đảo. Khiêm rời đảo
qua Canada trước tôi. Khi biết vợ chồng tôi từng mở quán ăn ở Việt Nam và vợ tôi là đầu bếp chuyên nghiệp nên Khiêm đề nghị tôi khi
nào vợ tôi
qua đây
sẽ hợp tác với chúng tôi mở một nhà hàng ở Montréal.
Khiêm bỏ vốn và chúng tôi bỏ công.
Khiêm sang tiệm Long Mỹ ở đường
Jean Talon và chị Mỹ chủ cũ của tiệm sẽ tạm thời giúp chúng tôi làm bếp
chính chờ vợ tôi qua.
Một hôm, tôi đang
làm việc ở Charcuterie Parisienne th́ văn pḥng hảng gọi tôi cho biết sở di trú báo tin vợ con
tôi được visa sang Canada đoàn tụ với tôi. Không nổi vui mừng nào hơn
sau gần 6 năm xa cách tôi sẽ được sum họp với gia đ́nh.
Hôm đi đón vợ con tôi nhằm đúng ngày 8/3 (ngày Quốc Tế Phụ Nữ) năm 1992, tôi nhờ anh Lê Tấn Lộc, bạn đồng
nghiệp đồng
thời là bạn ve chai ( “camarade de bouteille”) trước
75 và Hùng làm chung hăng lấy xe hơi đi với tôi lên phi trường Mirabel đón
vợ con tôi.
Nhớ lại ngày tôi
ra đi,
Lư, con trai lớn tôi mới vào lớp 6 trường
Khánh Hội 1, quận 4 và Lan, con gái tôi đang học lớp 2 mà nay đứa lớn đă 17 tuổi học lớp 11 trường Nguyễn Trăi và đứa
nhỏ 13 tuổi học lớp 8 trường Chi Lăng.
Từ phi trường về đến
Montréal, tôi mời mọi người vào nhà hàng Chim Sẻ của chúng tôi ăn
uống mừng ngày sum họp của gia đ́nh tôi. Tôi đă đổi
bảng hiệu Long Mỹ sang Chim Sẻ.
Sáu năm xa cách, đêm đầu
tiên gặp lại, vợ chồng tôi có biết bao
nhiêu điều để tâm sự. Hai đứa
con tôi v́ trái giờ giấc cũng
không ngủ được.
Sáng hôm sau, gă Tây C̣i ở tầng dưới chạy lên kiếm chuyện nói rằng chúng tôi làm ồn
hắn không ngủ được.
Trước đó,
nhiều lần hắn gỏ cửa pḥng tôi
than phiền tôi mở nhạc lớn quá. Bên cạnh pḥng tôi có
một anh người Hoa, từng du học ở đây, ở một ḿnh chỉ có một cái radio nhỏ mà cũng
bị gă Tây C̣i này chạy
lên kiếm chuyện. Nghe nói gă bị vợ bỏ, bị stress nặng nên trút nỗi hận t́nh lên những người lối xóm. Khi nghe
tôi kể lại, những người
làm chung hăng đề nghị tôi dẫn họ về nhà tôi nhậu nhẹt để nếu gă đó chạy lên, họ sẽ cho gă một bài học. Tôi từ chối v́ không muốn rắc rối.
V́ vợ con mới qua, tôi
không muốn họ bị sốc nên nói với chủ nhà tôi phải trả nhà để thuê chỗ khác dù
chưa
hết hợp đồng
thuê nhà . Chủ nhà thông
cảm nẻn thay v́ phải bồi thường
3 tháng tiền nhà, tôi chỉ trả một tháng để chủ nhà đăng báo t́m người
thuê.
Sáng ngày hôm
sau, chúng tôi dọn nhà về đường St-Zotique, cũng
không xa chỗ tôi làm.
Căn
nhà mới là 5 1/2 có 3
pḥng ngủ. Khiêm về ở chung với chúng tôi để chia bớt tiền nhà.
H́nh chụp vợ
chồng tôi năm 1993 ở nhà tại Montréal
Sau vài
ngày đi
làm giấy tờ và nghỉ ngơi, vợ tôi bắt đầu
ra nhà hàng làm bếp chính, Khiêm
làm phụ bếp và chạy bàn. Buổi chiều, từ hăng về tôi ghé
nhà hàng để phụ việc với hai người.
Tỉnh bang Québec có đa số dân nói
tiếng Pháp nên từ năm
1974 chính phủ tỉnh bang này ra sắc luật 101 công nhận Pháp Ngữ là ngôn ngữ chính ở đây.
Tất cả mọi giao dịch bằng miệng hay trên giấy tờ phải ưu
tiên cho tiếng Pháp. Trên bảng hiệu, nếu bằng hai thứ tiếng Anh và Pháp,
th́ hàng chữ tiếng Pháp được viết phía trên và
to hơn
hàng chữ tiếng Anh phía dưới. Chỉ có con
cái những người
nói tiếng Anh mới được cho học trường
Anh, c̣n lại phải học trường
Pháp.
Muốn vào đại học ở Québec học sinh phải qua 13 năm
chứ không phải 12 năm
như ở Việt Nam: 6 năm tiểu học, 5 năm trung học và 2 năm
CÉGEP (Collège d’enseignement général et professionel). Nếu ai muốn học chuyên ngành th́ phải
học 3 năm ở CÉGEP để có thể trở thành cán sự (technicien).
Xong CÉGEP học sinh theo khoa học thuần tuư ( sciences pures) ghi tên vào các ngành toán hay kỷ thuật, học sinh theo khoa học về sức khoẻ (sciences de la santé) ghi tên vào y khoa, nha khoa, dược
khoa, thú y hay điều dưỡng. Các trường đại học chọn sinh viên theo thành tích học
vấn ở trung học và CÉGEP.
Gay go nhứt cho những ai muốn học thành bác sĩ. Không những phải có điểm cao mà c̣n phải qua một cuộc phỏng vấn. Ngoài ra các
trường đại học c̣n đưa ra một tiêu chuẩn chọn lựa theo thống kê gọi là cote Z hay
cote R. Tôi được các ông bác sĩ Việt Nam khuyên cho con ghi tên ở những trường CÉGEP dễ để có điểm cao nhứt trong trường
th́ được cote Z cao, như vậy chắc chắn được nhận vào y khoa.
Tôi nghe lời cho con gái
tôi vào học CÉGEP
Rosemont là một trường
dễ thay v́ vào Bois De Boulogne hay Maisonneuve là các trường
khó. Không ngờ năm con gái tôi
vào đại học th́ người
ta đổi cote Z sang cote R, theo đó ai học trường
dễ sẽ bị trừ điểm. Thành ra con gái tôi không vào được
y khoa đành
vào nha khoa. Nhưng
may mắn thay, với ngành này nó đă đạt được thành công trong nghề nghiệp.
Một ngẫu nhiên, tôi và
hai con tôi đều từng cùng học ở trường đại
học Montréal. Trường này toạ lạc trên đồi Mont Royal nên phong cảnh
rất đẹp. Nhưng
vào mùa đông, đường
dốc bị đóng băng nên khi di chuyển từ pavillon
này sang pavillon khác rất nguy hiểm v́ trơn
trợt. Tôi đă té một lần trên đó bị trầy trụa cả mặt mày.
Trước đây, ở tỉnh bang Québec,
giáo dục là công việc của Giáo Hội Công Giáo. V́ vậy. Trước
năm
1998, Uỷ Ban Công
Giáo Học Đường
Thành Phố Montréal
CÉCM (Commission des écoles Catholiques de Montréal) quản lư tất cả cá trường tiểu học, trung học, trường
người lớn và trường
dạy nghề. Từ ngày 1/7 năm
1998 Uỷ Ban
này đổi thành Uỷ Ban Học Đường Thành Phố Montréal
CSDM (Commission scolaire de Montréal).
Tôi dẫn hai con tôi đến văn pḥng CÉCM xin ghi
danh đi
học. Hai đứa được nhận vào lớp acceuil ở trường
trung học
Louis-Joseph-Papineau trên đường Louvain Est
cách nhà chúng tôi khoảng 45
phút đi
xe bus. Ngày đầu tiên tôi dắt chúng đến
trường cho biết. Trên xe bus
tôi đếm số trạm dừng cho chúng nhớ. Hôm sau hai đứa tự đi
học và tôi không quên viết địa
chỉ trên một miếng giấy cho mỗi đứa
giữ, nếu lạc đường
nhờ cảnh sát đưa
về nhà.
Chỉ sau 4 tháng học
Pháp Văn,
hai đứa con tôi đủ sức vào lớp thường xuyên ở trường
trung học Lucien Pagé
trên đường Jarry. Lư vào 4è và Lan vào 2è đúng vào đầu
năm
học.
Nhà hàng Chim Sẻ của
chúng tôi ở Montréal
không bán đầy đủ các món đặc sản chim và thịt
rừng như quán
Chim Sẻ ở quận
4 ngày nào v́ những
luật
lệ nghiêm ngặt
bảo tồn
cầm thú thiên nhiên ở đây. Nhà hàng chúng tôi không có món chim sẻ rô-ti ḍn và béo, dù vẫn
mang bảng
hiệu
Chim Sẻ,
cũng không có món nhím xào lăn ngon hơn thịt gà nữa. Nhưng bà
xă tôi vẫn
chju khó làm món dồi
lươn tốn nhiều công phu nhưng rất đặc sắc làm những
thân chủ mới của
chúng tôi ở đây rất
tán thường.
Ngoài ra, những
món nhậu
như lẩu
cá hú, cả ri
dê, ḅ bóp thấu,
cua rang muối...làm
cho nhà hàng chúng tôi khác biệt
với các nhà hàng khác ở Montréal
này.
Ở hải
ngoại,
nơi nào cộng đồng người Việt đông đảo th́ ở đó
nhà hàng, garage sửa
xe, tiệm
hớt tóc và sau này các tiệm
nail là những
nơi đồng hương chúng ta gặp gỡ thường xuyên. Ở nhà hàng chúng tôi, những
người
nổi tiếng
trong giới
nghệ sĩ ở miền Nam trước
75 cũng thường
hay lui tới.
Chúng tôi được
chiêm ngưỡng
bằng xương bằng
thịt
những
người đẹp như là á hậu
truyền
h́nh Hoàng Kim Uyên, phu nhân của
bác sĩ Trang Châu
(người được giải văn chương toàn
quốc
với tác phẩm
Y Sĩ Tiền
Tuyến)
hay Như Hảo,
vợ của
giáo sư nhạc
sĩ Phạm Mạnh Cương. Tiếc
thay những đôi trai tài, gái sắc ấy sau này đă
ră cánh uyên ương. Nhà
hàng chúng tôi cũng từng
phục
vụ một
trong những
ông vua nhạc
trẻ trước 75: Trường Kỳ, người
thấp
bé với đôi kính cận
thật
dầy. Anh ấy đă mất
trong khi đang liên
tiếp
cho ra đời
những
tác phẩm
viết
về tiểu
sử những
ca sĩ Việt
Nam ở hải ngoại.
Anh Lê Tấn Lộc,
bạn tôi mời
những
người
hoạt động trong lănh vực văn chương như bác
sĩ Trang Châu, các nhà thơ Lưu Nguyễn. Phạm Nhuận,
Hoàng Xuân Sơn, Luân
Hoán; nhà văn Hồ Đ́nh Nghiêm, nhà văn
Kiệt Tấn
(em anh Lê Tấn Lộc ) mỗi
lần từ Pháp
sang Montréal chơi, nhiếp ảnh gia Lê Quang Xuân... Các anh đó ở trong
Trung Tâm Văn Bút
Việt
Nam Hải
Ngoại
Québec mà chủ tịch là anh Trang Châu. Nhân đó,
các anh mời
tôi tham gia vào Trung Tâm của
các anh v́ biết
tôi từng
viết
bài cho một
số tạp
chí văn chương như Sóng ở Toronto và Nắng
Mới ở Montréal.
Khách hàng tôi c̣n là những bác sĩ đang hành
nghề ở Montréal ngoài anh Trang Châu c̣n có Lê Phước Hoàng, bác sĩ gia đ́nh của tôi, vừa
mới mất
cách nay hai năm, bác
sĩ Hồ Quang Nhân chuyên
làm đẹp
cho các bà, bác sĩ Đường
Minh Hoàng, bác sĩ Hướng...Đặc biệt , bác sĩ Hướng
uống rượu
mạnh như uống
nước lạnh làm tôi nhớ đến bác sĩ Toán, một
khách hàng của
quán Chim Sẻ quận 4 của
tôi. Anh ấy
từng ở chung
trai cải
tạo Kà Tum, Tây Ninh với
tôi và được
trại
cử đi... chăn trâu.
Nhà anh ở xóm
Ḥa B́nh gần
nhà tôi và nổi
tiếng
là người
học giỏi. đêm nào anh xuống
quán tôi, anh cũng uống
rượu thuốc đến
lúc tôi dẹp
tiệm
mới ngưng. Sau này,
khi tôi về Việt Nam được
người
quen cho hay anh đă
mất v́ thất
chí.
Tôi quen anh Bảy Nổ làm
việc ở một
garage sửa
xe. Anh ấy
thường đi nhậu với tôi. Một
hôm anh và tôi đi nhậu
xong, anh lái xe đưa tôi
về nhà. Xe đang
chạy trên đường
St-Laurent, bỗng
bị cảnh
sát gọi
lại. Anh Bảy
bị cảnh
sát bắt
dang hai tay ra đi theo đường
thẳng,
nhưng v́
uống quá nhiều
bia nên anh Bảy đi nghiêng ngă, khiến tôi dù trong hoàn cảnh đó cũng suưt
bật cười.
Thế là
anh Bảy
bị c̣ng tay đưa
lên xe cảnh
sát c̣n xe của
anh bị kéo
về đồn,
lúc đó
tôi chưa thi xong bằng
lái xe nên không được
quyền
lái xe.
Vợ anh
Bảy cho tôi biết
cảnh sát giữ anh
lại v́ anh bị phạt nhiều
lần nhưng không
chịu đóng phạt.
Nếu anh đóng đủ tiền phạt
th́ anh sẽ được thả, nhưng chị Bảy không đủ tiền để đóng. Tôi đưa chị Bảy mượn
350 đồng để chị đủ tiền lănh anh Bảy
ra. Sau khi anh Bảy
về, anh ấy
hỏi tôi muốn
có một
chiếc
xe làm chân đi làm
không v́ tôi mới
vừa có bằng
lái xe. Tôi đồng
ư. Anh Bảy đưa cho tôi một chiếc
Pontiac xanh đời
1983 của
hăng GM. Năm đó
là 1993, nghĩa là
xe này có tuổi
hơn 10 năm. Canada thường được gọi là "sân sau" của
Mỹ v́ những
công ty của
Mỹ đều
có hăng xưỡng
sản xuất
hàng bên Canada. Thời
chiến
tranh Việt
Nam, một
phần
vũ khí, xe tăng, máy
bay của
Mỹ được
sản xuất
tại Canada. Nếu
thành phố Detroit
là kinh đô
xe hơi của
Mỹ th́ thành phố Oshawa,
thuộc
tỉnh bang Ontario, là thủ đô ô tô của
Canada. Tuy nhiên, với
thời
tiết
khắc
nghiệt ở Canada và nhứt
là ở tỉnh bang Québec, xe Mỹ không
bền bằng
xe Nhật.
Chiếc
xe Pontiac anh Bảy
giao cho tôi trừ nợ trông rẩt
tàn tạ.
Người
ta thường
nói trên thế giới có hai thủ đô lạnh
nhứt
là Ottawa của
Canada và Oulan-Bator của
Mông Cổ.
Thật
vậy, Canada tiếp
giáp với
Bắc Cực
nên khí hậu
rất khắc
kiệt.
Có những
nơi ở miền bắc
Canada lạnh
dưới -40 độ C. Trong hơn 30 năm ở thành phố Montréal, tôi từng
trải
qua những
lúc nhiệt độ ở đây
xuống
dưới -30 độ C. Những lúc đó,
dù mặc
quần
áo thật ấm, không ai có thể ở bên ngoài quá 5 phút. Người
nào đi lạc
bên ngoài chỗ không
có nhà cửa
như rừng
hay đồng
trống
trong mùa đông
th́ cầm
chắc
cái chết
v́ thân nhiệt
bị hạ thấp (hypothermie).
Khi hàn thử biểu
xuống
dưới -20 độ C, b́nh điiện xe hơi bị chết, xe hơi không
nổ máy được.
Lúc đó
những
dịch vụ như kéo xe (remorquage) hay sạc
b́nh rất đắt khách. Tài xế taxi cũng lợi
dụng những
cơ hội đó kiếm
tiền
bằng cách câu điện
từ xe ḿnh để sạc cho xe bị chết máy. Nhiều
lần, tôi phải
trả 25 đô để nhờ tài xế taxi
sạc b́nh cho xe ḿnh.
Trong những lần
có băo tuyết
th́ trên xa lộ thường xảy ra tại
nạn xe hơi, nhứt
là những
tai nạn
liên hoàn, xe đụng
nhau dồn
cục có khi vài chục
chiếc
như vậy
v́ gió thổi
tuyết
bay mù trời,
tài xế không
trông thấy đường. Nhưng tệ hại nhứt
là những
cơn mưa lạnh (pluie
verglacante) làm tuyết đặc lại thành nước đá sau khi mưa đă
tạnh. Khi đó,
người đi bộ trên lề đường
sẽ bị trượt ngă mang thương tích, thường là găy tay. Không ai dám nói
rằng ḿnh ở Montréal
mà chưa hề bị trượt
ngă ngoài đường
vào mùa đông.
C̣n trên xa lộ th́ đường sá bị đóng
băng thành ra xe bị lạc
tay bánh đụng
chạm
nhau hay đâm
vào lề.
Sau này, nhà nước
bắt buộc
người đi xe hơi phải dùng bánh xe
mùa đông để di chuyển trong mùa đông.
Trận băo băng (verglas) năm 1998
ở Montréal làm ngă rất
nhiều
cột điện
và cỗ thụ mà hậu
quả hàng
trăm ngàn
nhà dân mất điện trong mùa đông. Đa số nhà ở đây
sưởi bằng điện
nên dân thành phố Montréal đă trải qua những
ngày lạnh
lẽo nhứt.
Chính quyền
thành phố phải lập
những
chỗ tạm trú được
sưởi ấm nơi trường
học, công sở cho
những
người
bị mất điện.
Chủ nhà
cho chúng tôi mướn
tầng dưới để làm nhà hàng là hai chị em người
Việt
nói tiếng
Bắc. Nghe nói trưỡc đây họ đi tu theo đạo Công Giáo nhưng nay đă xuất tu. Có lẽ nhờ bản
chất
cần kiệm
của người
miền
Bắc nên ngoài căn nhà
cho chúng tôi thuê, hai bà c̣n một
căn nhà khác để ở cũng gần
nhà hàng chúng tôi. Hai bà ở lứa tuổi
tứ tuần.
Một trong hai bà có vẻ thích
Khiêm lắm
v́ anh chàng nầy
c̣n độc
thân. Chúng tôi thường đùa nói Khiêm ưng bà ta đi để khỏi phải
trả tiền thuê nhà. Khiêm giăy nảy
trả lời rằng
bà ấy đáng chị hai
của y làm sao mà ưng
được.
Một trong những
khách hàng của
chúng tôi kể rằng tại
nhà hàng này trước
tên là Long Mỹ (
Long là chồng,
Mỹ là vợ,
chủ cũ của nhà hàng), đă xảy
ra một
vụ án mạng
chết
người
mà nạn
nhân và hung thủ là
người
Việt.
Cảnh sát Montréal không điiều
tra được
ǵ v́ sự bất hợp
tác của
những
người
Việt
thường
có trong những
vụ án mạng
xảy ra trong cộng đồng người Việt v́ họ sơ bị trả thù. Nghe nói hung thủ sau đó v́ thua bạc đă nhảy
cầu Jacques Cartier tự vận.
Từ đó nhà hàng vắng
khách hơn lúc
trước.
Khi đến
sang nhà hàng này, Khiêm và tôi không biết
chuyện đó. Gia đ́nh
người
mướn nhà để ở trên lầu
nhà hàng tôi thỉnh
thoảng
xuống
nói chuyện
chơi với
chúng tôi. Họ cho
biết
rằng nhà này có ma v́ nhiều đêm họ có
tiếng
chân người
và tiếng
xích xiềng
kêu loảng
xoảng
phía dưới
nhà hàng chúng tôi. Họ nói
hết hợp đồng thuê nhà họ sẽ trả nhà đi thuê
chỗ khác
v́ quá sợ.
Tôi không tin những
chuyện
ma quỷ.
Tôi cho rằng địa điểm nhà hàng này không thuận lợi
v́ không có băi đậu
xe, khúc đường
Jean Talon trước
quán lại
không cho xe dừng
trong giờ hành
chánh mà chỉ cho đậu buổi tối.
Chúng tôi đă
hấp tấp
sang quán mà không chú ư đến điểm này. V́ vậy ban đêm
nhà hàng đông
khách nhưng ban ngày
chỉ đông khách vào bữa ăn trưa nhờ công nhân bên
gian hàng bán vật
liệu
xây dựng
Brico gần đó. C̣n những
lúc khác th́ nhà hàng tôi vắng
khách. Sau này, khi cửa
hiệu
Brico đóng
cửa th́ ban ngày nhà hàng tôi rất
ít khách.
Ban đêm tuy đông
khách nhưng chúng
tôi có một
nối khổ khác.
Nhiều đêm thực
khách nhậu
tới 2 giờ sáng
chúng tôi cũng phải
chờ họ xong mới
dẹp quán. Rồi
từ quán chúng tôi đi
bộ về nhà
trong thời
tiết
lạnh lẽo
cuối
thu. Chúng tôi để Khiêm
về trước
v́ không việc
ǵ cho anh ta lúc đó.
Chúng tôi nghĩ như vậy
suốt
ngày đêm,
hai đứa
con tôi, ngoài giờ ở trường
và lúc đến
nhà hàng để ăn tối với chúng tôi, chúng không hề được nhận được
sự giám sát nào của
chúng tôi. V́ vậy
tôi quyết định nói với Khiêm hoặc
Khiêm thuê đầu
bếp khác hay sang nhà hàng lại
cho người
khác. Khiêm đồng
ư giải
pháp thứ hai.
Thế là
nhà hàng Chim Sẻ chỉ hiện
diện ở Montréal vỏn
vẹn 6 tháng.
Chúng tôi chuyển nghề nhà
hàng sang nghề may.
Thế là
mỗi ngày bà xă tôi đi
qua nhà em gái tôi học
may. Sau một
thời
gian, nàng đă
quen với
nghề mới, Chúng tôi mua lại
một cặp
máy cũ: máy
plain và máy overlock và lănh hàng may gia công ở nhà. Buổi
chiều,
sau khi đi làm
về, tôi ngồi
vào máy overlock phụ vợ. Con gái tôi khi không có bài vỡ nhiều cũng tiếp
tay với
mẹ nó. V́ không đủ tiền mua máy plain tự động nên chúng tôi mua máy plain
thường,
phải
cắt chỉ bằng tay v́ vậy
không ra hàng nhanh như người
ta. Dù sao, nghề này
cũng phụ giúp vào thu
nhập
cho gia đ́nh để nuôi sống bốn
miệng ăn.
Vận rủi
vẫn c̣n đeo đuổi
chúng tôi. Một
hôm, đang ra khuông
jambon, bỗng
nhiên tôi bị đau nhói ở lưng không
thế đứng được. Th́ ra trong 5 năm làm việc ở đây, động tác cúi xuống để lấy khuông jambon rồi
mang lên bàn để lấy jambon ra khỏi
khuông làm cho những đốt xương sống tôi cọ xát với
nhau Động
tác đó
lâu dần
làm tổn
hại đến
cột sống.
Hăng tôi nhờ anh
thợ máy
Marcel chở tôi
vào bệnh
viện
Jean Talon. Nơi đây,
sau khi rọi
quang tuyến
X kết
luận
bác sĩ kết
luận
rằng đốt
xương sống tôi bị ṃn. Bác sĩ cho biết
không có cách nào để trị chỉ cho
tôi uống
thuốc
giảm đau và tập
vật lư trị liệu.
Ban đêm khi nằm
ngủ,
muốn
nghiêng qua một
bên tôi phải
nhờ vợ tôi kéo tay dùm chứ không
tự làm được.
Tôi được
nghỉ việc mấy
tháng để trị liệu
và trong khoảng
thời
gian đó
tôi lănh tiền
của Ủy
Ban Sức
Khỏe
Và An Toàn Lao Động
CSST (Commission de la santé et de la sécurité du travail). Sau khi chấm dứt
thời
gian trị liệu, bệnh
viện
gởi tôi đến
một bác sĩ chuyên
khoa về xương và cơ (orthomédiste) để thẩm định
tỷ lệ bất khiển
dụng (invalidité ) của
tôi. Ông ấy đánh giá là 3% và từ nay
tôi không thể mang
xách vật
nặng trên 10kg.
Tôi nộp hồ sơ kết luận này cho CSST để đ̣i hăng bồi
thường.
Nhưng như tôi đă nói, chủ hăng
tôi là người
Do Thái nên ông ta khiếu
nại và nhờ CSST
cho phép hăng ông gởi
tôi đi bác
sĩ chuyên khoa khác. Người ta thường nói:"mạnh v́ gạo,
bạo v́ tiền".
Bác sĩ của
hăng thẩm định tôi đủ sức khỏe để trở lại
làm việc.
Tôi làm đơn khiếu
nại nhờ luật sư miễn
phí của
cơ quan Giúp Đỡ Pháp Luật (Aide Juridique) can thiệp
với CSST. Hăng tôi trả lời với
luật
sư của tôi là họ đồng
ư trả tôi
3.000 đồng
bồi thường.
Tôi không đồng
ư và nhờ luật sư đưa nội
vụ ra hội đồng tài phán của CSST phân xử.
Nhưng tôi
không đủ tiền bạc để đem phần thắng về ḿnh:
hội đồng
giữ y
kết luận
của bác sĩ của
hăng.
"Chúng ta đi mang theo quê hương". Đó là câu nói của những
người
Việt ở hải
ngoại. Ở đâu
có người
Việt
th́ ở đó có h́nh ảnh
của Việt
Nam nhứt
là qua những
món ăn. Nghe nói
những
người
Việt
ra đi trong những
năm 75, 76 rất thèm khát những món ăn Việt
Nam vô cùng. Lúc đó,
mua được
một chai nước
mắm đối
với họ như bắt được vàng.
Ngày nay, trên khắp thế giới, chỗ nào
có cộng đồng người Việt th́ ở đó có chợ Việt, nhà hàng Việt.
Tôi c̣n nhớ,
trong một
chuyến
về Việt
Nam, khi quá cảnh
11 giờ ở phi trường
Narita, Nhật
Bản, tôi và một
người
Québécois đồng
hành ra ngoài lấy
xe lửa
tốc hành đi thăm thủ đô Tokyo. Chúng tôi đi
dạo trung tâm thượng
mại bên cạnh
ga xe lửa
trung ương của
Tokyo trông thấy
một quán phở Việt Nam trong khu ăn
uống ở đó.
Ai tới quận
Cam, ở miền nam tiểu
bang California, Hoa Kỳ nơi tập trung ngườii Việt đông đảo nhứt trên thế giới, đặc
biệt
tại khu vực được mệnh danh là Tiểu
Sài G̣n (Little Saigon), cũng có
cảm tưởng
như ḿnh đang ở Sài G̣n, thủ đô
của miền
Nam Việt
Nam trước
năm 75, có khác chăng là người
ta chỉ thấy xe hơi chứ không
có xe gắn
máy di chuyển
trên đường
phố. Ở đây
không thiếu
thứ ǵ
của Việt
Nam. Rau quả,
thực
phẩm,
kể cả mắm đều được sản xuất
tại chỗ.
Tôi đă
sang đây
nhiều
lần và có một
lần tôi ăn Tết
tại đó.
Trong những
ngày giáp Tết,
chung quanh khu Phước
Lộc Thọ,
có đủ thứ gian hàng bán hoa, pháo, bánh chưng, bánh tét, củ kiệu,
dưa hành, liễn đối, bao ĺ x́... giống như ở chợ Bến
Thành ngày xưa chỉ thiếu gian hàng kem đánh
răng Perlon và Hynos với h́nh anh Chà nhe hai hàm răng
trắng. Chiều
30 Tết
năm đó, tôi ngồi trong một
quán phở,
nghe tiếng
pháo nổ mà
nhớ da
diết
những
ngày Tết ở Sài G̣n trước
năm 75.
Ở khu vực Đại Montréal (Grande Montréal) tức là thành phố Montréal
và vùng phụ cận có nhiều
chợ thực phẩm
Á Châu. Những
ngôi chợ đầu tiên là của người
Miên gốc
Hoa như chợ Kim
Phát (đầu
tiên ở Côte
Des Neiges nay thêm hai chợ khác ở Jarry và Taschereau); chợ Asie
(nay là Oriental) và chợ Pnom
Penh (nay đă
sang cho người
da đen ), ở góc đường St Denis và Jean
Talon; Wing Phát (nay thành nhà hàng) và Kei Phát ở đường
Jarry gần đường Pie X. Tôi c̣n nhớ có một
ngôi chợ của người
Việt
là chợ Hậu Giang ở đường St Laurent, phố Tàu đă
dẹp bỏ từ lâu, chủ nhân
sau đó
chỉ chú
tâm khai thác nông trại
trồng
rau ở Québec
và Floride. Các ngôi chợ của người
Hoa gốc
Chợ Lớn như Kiến
Vinh, Kiến
Xương ở phố Tàu nay đă
ngưng kinh doanh. Sau này
xuất
hiện
những
ngôi chợ của người
Hoa gốc
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông như các
chợ Hawaii
(ở đường
Pie X), C&T (ở đường
Laurentien và ở đường Taschereau,
Brossard), G&D ở phố Tàu...Ở những chợ này,
người
ta có thể t́m
mua được ổi, xoài, chôm chôm, măng
cụt, sầu
riêng. mít...nhưng giá
thật
là mắc.
Về mặt nhà hàng ăn ở đây, có người
nói " rất
nhiều
nhà hàng tưng bừng
khai trương nhưng rồi
âm thầm
dẹp tiệm"
giống
như nhà
hàng Chim Sẻ của chúng tôi. Thành thật
mà nói đa số những người
kinh doanh nhà hàng ở đây không phải
là người
chuyên nghiệp.
Chỉ là
"gặp
thời
thế thế thời
phải
thế".
C̣n dân chuyên nghiệp
như chúng
tôi th́...thất
nghiệp.
Người Tây Phương ở Bắc Mỹ (Hoa
Kỳ và Canada) hay ở Âu
Châu đều
thích nhứt
hai món ăn Việt
Nam: chả gị
mà tôi không biết
ai đă
kiêu hănh dịch
là rouleau impẻrial
(bánh tráng cuốn
hoàng gia) và phở (soupe
Tonkinoise). Nh́n một
ông Tây húp sùm sụp
chén nước
măm khi ăn chả gị hay tô nước phở ta biết
ông ấy đang khoái khẩu cở nào!
Nghe nói trong thực đơn hàng ngày của tổng
thống
Mỹ có món phở của Việt
Nam.
Năm
1993, má tôi từ Việt Nam qua thăm chúng
tôi. Đồng thời
cô Bảy
tôi cũng từ Mỹ sang đây
chơi. Khiêm đă ra ngoài thuê chỗ khác ở. Tôi để hai
bà ở chung
pḥng của
Khiêm để chị dâu và em chồng
tâm sự.
Má
tôi đi máy
bay một
ḿnh từ Việt Nam qua đây
dù không biết
một chữ tiếng Pháp hay tiếng
Anh. Nghe bà kể lại chuyến
hành tŕnh qua nửa
ṿng trái đất
của bà, mọi
người
không thể nín
cười. Trên máy bay, khi tiếp viên phi hành hỏi
bà ăn gà
hay ḅ, bà dùng hai tay đập
hai bên hông như con gà đập cánh để cho biết bà muốn ăn gà. Đến
phi trường
Montréal, khi vào hải
quan bà không biết
trả lời các câu hỏi
của họ nên
bà chỉ ra
ngoài cửa
rồi ra dấu
chỉ vào
bụng, chụm
hai tay là dấu
bụng bầu
rồi giơ ngang tay chỉ độ cao. Ư của bà là con bà đang
chờ ngoài cửa.
Thế là
nhân viên hải
quan hiểu
ư bà, ra ngoài gọi
tôi vào thông dịch
cho bà.
Cô Bảy tôi đi qua với
vợ chồng
con trai thứ của bà, thằng
Sáu, hai đứa
con của
Sáu và một đứa con của anh thằng
Sáu là thằng
Dũng. Dũng là người giúp tôi ra đi. Sáu chở gia đ́nh qua tôi bằng
một chiếc
xe van 7 chỗ.
Suốt
mấy ngày ở bên
nhà tôi, nó thường
ngồi
ngoài xe uống
bia. Năm 2002, chúng
tôi qua Cali thăm cô
Bảy, khi đó
bà đă được các đứa em họ tôi gởi
vào nhà dưỡng
lăo. Gặp
tôi, bà nắm
lấy tay tôi nói tôi bảo
các con bà đem bà
về nhà, v́ ở nhà
dưỡng lăo buồn quá. Tôi thấy
tội nghiệp
cho bà, nhưng theo các
em tôi nói, ở nhà
v́ đă
lẫn, đêm
nào bà cũng đến
pḥng từng đứa đập cửa làm chúng không tài nào ngủ được để sáng hôm sau dậy đi làm. Đó là dịp
cuối
cùng tôi gặp
lại cô tôi. Năm sau, các
em tôi báo cô tôi mất,
nhưng tôi
không thể qua
thăm viếng
cô được
v́ tôi vừa
mua nhà và đang dọn
vào nhà mới.
Má tôi ở với
tôi và em gái tôi được
sáu tháng th́ nhứt định đ̣i về Việt Nam dù chúng tôi năn
nĩ bà ở lại để chúng
tôi làm thủ tục định
cư cho bà.
Tháng năm 1993, chủ nhà tôi ở đường
St-Zotique, lấy
nhà lại
cho người
thân ở.
Chúng tôi thuê một
căn nhà khác ở đường Maisonneuve, gần đường
Lorimier, dưới
chân cầu
Jacques Cartier. Ở đây gần
trung tâm phố,
nên thường
thường
vào buổi
chiều,
vợ chồng
tôi tản
bộ xuống đường
Ste-Catherine đến
tận ga métro Berri-Uqam sau bữa
cơm chiều. Khu này được mệnh danh là làng của
những
người đồng tính (Village Gai). Ở đây,
trên đường
người
ta trông thấy
những
cặp đàn
ông hay thỉnh
thoảng
có vài cặp đàn bà âu yếm
dắt nhau dạo
phố.
Luật ở bên đây
cho phép hai người đồng giới tính kết
hôn với đầy đủ quyền lợi
như vợ chồng b́nh thường.
Đi ngang qua các
bar rượu,
nh́n vào chúng tôi thấy
một cô ca sĩ đang uốn
éo hát trước
khán giă ngồi
chung quanh. Quan sát kỷ chúng
tôi mới
nhận
ra đó
là một
người đàn ông trong y phục
phụ nữ với
một cái khăn cột ở cổ nhưng trang điểm đẹp như một giai nhân. Hàng năm, vào giữa
tháng 8, thành phố đều có một cuộc
diễn
hành của
người đồng tính, đầy màu sắc rất
ngoạn
mục đi qua những đường phố lớn ở trung tâm.
May gia công tại nhà tuy vất
vả: làm việc
mười mấy giờ mỗi ngày nhưng có
lợi thế là
không phải
ra ngoài nhứt
là vào mùa đông
lạnh giá và có thể trông
nom con cái、
Sáng,
vợ tôi dậy
sớm lo cho tôi và hai con bữa ăn sáng tại
nhà và riêng tôi bữa ăn trưa mang theo ăn trong hăng.
Xong rồi,
nàng phải
ngồi
lên bàn may đến
trưa th́
phải
vào nhà bếp
chuẩn
bị bữa
cơm chiều cho cả gia đ́nh.
Sau khi đi làm
về, ăn cơm xong , tôi
lên máy overlock phụ vợ. Chúng tôi ít khi đi
ngủ trước
nửa đêm.
Cực
nhứt
là khi may hư đồ,
chủ bắt sửa
lại mà thời
gian gấp
rút, số lượng hàng sửa lại
mấy trăm cái,
chúng tôi phải
thức
trắng
mấy đêm
liền để sửa đồ.
B́nh thường,
mỗi đợt
hàng khi làm finition chúng tôi cũng
phải thức đêm để làm
cho xong hàng. Sau này, chúng tôi để dành
tiền
mua thêm một
cặp máy mới
nên ra hàng nhanh hơn và
có máy dư để con
gái phụ mỗi khi nó rảnh.
Chúng tôi đă may cho nhiều
contracteur khác nhau tuỳ theo
cách trả tiền công của
họ. Người
nào trả tiền công ṣng phẳng:
nhận
hàng xong trả tiền liền
th́ chúng tôi tiếp
tục làm cho họ,
nếu họ thiếu lại để trả sau, nhiều
lần như vậy
th́ chúng tôi sẽ t́m
chỗ may
khác. Chúng tôi cũng có
may cho em gái tôi.
Có một anh Tây C̣i, biết
nhà tôi nhận
may gia công nên anh ta nhờ chúng
tôi lănh may tạp
dề (tablier). Hàng này đơn
giản, giá lại
cao nên chúng tôi nhận
may. Sau vài lần
trả tiền ṣng phẳng,
lần cuối
cùng anh ta giao tôi số hàng
khá nhiều.
Khi anh ta nhận
hàng, anh ta nói để hôm
sau anh ta sẽ trả tiền.
Sợ mất
mối làm ăn giá
cao, tôi miễn
cưỡng đồng ư cho anh ta lấy hàng. Nhưng anh ta đi luôn
không trở lại. Thế là
chúng tôi đă
may không công cho anh ta mấy
ngày trời.
Tên anh ta là André Lalumière, tôi đổi
tên anh ta lại
là André Desténèbres. Sau này, tôi t́nh cờ trông
thấy
anh ta dưới
phố.
Vợ tôi định
gọi anh ta lại để đ̣i tiền
nhưng tôi
ngăn vợ tôi
lại v́ nghĩ rằng
anh ta có thể chối v́ ḿnh không có bằng
chứng.
Những
năm đầu của thiên kỷ thứ ba, hàng may được
các hăng lớn đưa về các nước Nam Mỹ và Á Châu làm v́ ở những nơi đó
giá nhân công rẻ hơn. Ai c̣n theo nghề may chỉ được trả công với
giá thật
bèo. Lúc đó,
hai đứa
con tôi đă
ra trường,
có việc
làm thu nhập
cao, chúng tôi không cần
phải
theo đuổi
nghề may
nữa.
Mùa hè ở Montréal là mùa của
các lễ hội. Những
cuộc
diễn
hành đầy
mầu sắc ở trung tâm thành phố như: diễn hành Saint-
Patrick của
cộng đồng
người
Ái Nhĩ Lan với
màu tượng
trưng xanh lá
cây khởi đầu cho mùa lễ hội
trong mùa xuân vào giữa
tháng 3; diễn
hành Carifête của
các sắc
dân Caribe da đen vào
giữa
tháng 6, diễn
hành St-Jean Baptistengày 24-6 của
người
Québecois, diễn
hành Fierté Gai của
người đồng tính vào đầu tháng 8...Rồi đến
các buổi
nhạc
hội ngoài trời
như các
festival Jazz, Juste Pour Rire, Francofolie...
Cũng
phải kể đến cuộc thi bắn
pháo bông quốc
tế kéo dài suốt
tháng 7, mỗi
tuần
một hoặc
hai buổi
tối vào thứ tư và thứ bảy và mỗi
lần nửa
giờ bên
La Ronde trên đảo
Ste-Hélène nằm
giữa
sông Saint Laurent. La Ronde là một
khu vui chơi tương tự như Disney World nhưng đóng
cửa vào mùa đông.
Trong khi bắn
pháo bông th́ cầu
Jacques Cartier cấm
xe cộ lưu thông để cho
người đi bộ lên cầu xem pháo bông. Khi tôi ở dưới cầu Jacques Cartier th́ tôi chỉ cần đi bộ ra
phía sau nhà là có thể xem
pháo bông. Sau này, khi tôi sang ở bên
Longueuil tức
là phía bên cầu
Jacques Cartier, tôi chạy
xe tới
parking của
trung tâm thương mại
Place Longueuil và mang theo ghế xếp để ngồi xem pháo bông.
Thành phố c̣n tổ chức những
hội chợ thương mại (foire
commerciale) hay c̣n gọi
là vente trottoir trong nhiều
khu phố.
Người
ta bày hàng ra giữa đường (đă được rào chắn) bán giá rẻ.
Bà xă tôi, một
người
rất thích shopping ít khi bỏ qua
những
dịp này、
Ở thành
phố St-Jean-Sur-Richelieu,
ngoại
ô của
Montréal, vào đầu
tháng 8 có một
lễ hội
thi khinh khí cầu
quốc
tế. Người
ta có thể lên
khinh khí cầu để trải nghiệm
một chuyến
bay quanh khu vực
này nhưng chỉ dành
cho người
thích cảm
giác mạnh
và dám bỏ ra
vài trăm đồng
cho cuộc
du hành.
Montréal có một khu vực
sát bờ sông
gọi là Vieux Montréal (Montréal cỗ)
trong đó
có Vieux Port (Cảng
cũ) là nơi lui tới
của khách du lịch.
Vào mùa bắn
pháo bông, nơi đây
người
ta có thể ngắm pháo bông rất
gần nên đầy
nghẹt
người.
Montréal có nhiều bar club thoát y vũ:
danseuse nue (vũ nữ thoát y) dành cho đàn ông và danseur nu (vũ
nam thoát y) dành cho đàn
bà (club 281 trên đướng
Ste-Catherine). Người đồng tính cũng không mất quyền
lợi, họ có
những
club danseur nu (vũ nam thoát
y) cho đàn
ông ở làng đồng tính của họ.
Tuy không c̣n là kinh đô may mặc,
nhưng Montréal
vẫn là thiên đường
mua sắm.
Hai công ty bách hoá lâu đời
nhứt
của Canada hiện
diện ở Montréal là La Baie và Eaton.
Compagnie
de la Baie d’ Hudson (HBC) được
thành lập
ngày 2/5 năm 1670, ban đầu
chỉ là
một công ty của
người
Anh chuyên trao đổi
hàng hoá mang từ Anh
với lông thú của
người
da đỏ bản xứ.
Dần dần,
La Baie trở thành
một công ty bách hoá bán đủ thứ từ quần áo đến đồ gia dụng lớn
nhứt ở Canada. Hiện
nay, La Baie có khuynh hướng
bán lẻ các
sản phẩm
của những
thương hiệu
nổi tiếng
như Micheal Kors, Guess, Polo,
Tommy H́lfider, Lacoste, Under Armour, Nautica ...
The T. Eaton Company Limited thường gọi là Eaton’s là một
công ty bách hoá, sở hữu của
gia đ́nh
họ Eaton, thành lập
năm 1869 ở thành phố Toronto. Nhưng
công ty này bị sự cạnh
tranh khốc
liệt
của La Baie và Wal Mart phải đóng cứa
năm 1999.
Công ty Sears của Mỹ thành
lập những
chi nhánh bên Canada nhưng đầu
năm 2018 cũng đành dẹp tiệm
v́ gặp
khó khăn.
Montréal có rất nhiều
trung tâm mua sắm. Ở dưới
phố,
dọc theo đường
Ste-Catherine người ta thấy
một dăy dài nhiều
cây số cửa hiệu
nối tiếp
nhau ngoài mặt đường và trong
ḷng đất.
Montréal tự hào
có một
tiểu
thành phố ngầm dưới đất nối từ Complexe
Guy Favreau đến
ga xe lửa
trung ương Bonaventure. Các
trung tâm thương mại
với mọi
thứ cửa hàng, rạp
hát và quán ăn như Complexe
Desjardins, Place des Arts, La Baie, Promenade Cathédrale,
Complexe Des Ailes, Centre Eaton, Place Montréal Trust, Court Mont Royal, Place
Ville Marie và Place Bonaventure. Cho dù bên ngoài trời lạnh đến đâu, người
ta vẫn
có thể mua
sắm, ăn uống
thoải
mái, xong bước
lên xe điện
ngầm để về nhà từ thành
phố ngầm này.
Ngoài khu thương mại ở trung tâm thành phố,
Montréal có những
trung tâm khác trong thành phố và
các vùng phụ cận: Promenade du Boulevard ở góc đường Pie X và Jean
Talon, Galerie d’Anjou ở Anjou,
Place Versailles ở đường Sherbrooke,
Cantre Rockland trên boulevard de l’Acadie, Carrefour Angrignon trên đường Newman ở La Salle; Place Longueuil, Cantre Jacques Cartier, Place
Des Ormeaux ở Longueuil;
Mail Champlain và Dix Trente ở Brossard;
Carrefour De La Rive Sud ở Boucherville;
Carrefour Laval ở Laval...Mới đây,
người
sành mua sắm
có thêm một
oulet ở Mỉrabel.
Hai công ty bách hóa Mỹ lớn
nhứt
thế giới là Wal Mart và Costco cũng
có mặt ở Montreal.
Wal
Mart xâm nhập
vào Canada ngày 17/3 năm 1994 sau khi mua dây
chuyền
bách hóa Woolco. Ngày nay, Wal Mart bán cả thực phẩm
trong cửa
hiệu
của ḿnh.
Costco là công ty bán sỉ do hai công ty Price Club ở San Diego và Costco Whole Sale ở Seattle sáp nhập
với nhau từ năm 1993 . Muốn mua
hàng ở Costco,
người
ta phải đóng tiền
phí hàng năm để có
thẻ hội viên.
Siêu thị Métro sáng lập
tại Verdun, Montréal năm
1947 được người
Québecois ưa chuộng
nhứt.
Cũng xuất phát tại Montréal từ năm 1999, siêu thị Super C có giá cả tương đối rẻ cho người
tiêu dùng.
Công ty Loblaw ở Ontario thu tóm hai thường
hiêu Maxi và Provigo những
vẫn giữ hai
tên đó
hiện
diện ở Montréal
Hệ thống siêu thị IGA
(Independent Grocers Alliance) của
Mỹ cũng bỏ ṿi
qua Canada.
Ngoài ra ở Montréal và vùng phụ cận c̣n có các siêu thụ Adonis
của cộng đồng người Liban, Intermarché của cộng đồng người Hy Lạp…
Montréal c̣n có những chuỗi
cửa hàng thực
phẩm
chúc năng (biologique) như
Avril, Bulk Barn...
Năm
2000, con trai tôi ra trường
và làm việc ở thành phố Québec
về ngành điện
toán. Québec cách Montréal khoảng
252 km là thủ đô của
tỉnh bang Québec. Nếu
chúng ta không đi xe hơi riêng
và cũng không
dùng máy bay để đi từ Montréal đến Québec th́ có thể đi bằng
xe bus hay xe lửa.
Mỗi ngày, có 17 chuyến
xe bus của
hăng Orléan Express nối
liền
hai thành phố đó. Thời
gian của
chuyến
hành tŕnh là 3 giờ.
Giá vé từ 25$
trở lên.
Nếu ai muốn
thoải
mái hơn có
thể sử dụng
phương tiện
xe lửa.
Mỗi ngày có 9 chuyến
xe lửa
của công ty quốc
doanh Via Rail đi từ Montréal đến Québec và ngược lại. Thời
gian hành tŕnh là 3 giờ 24
phút và giá vé thấp
nhứt
là 36 $.
Du khách đến thành phố Québec có thể đi thăm các thắng cảnh
nổi tiếng
như phố cỗ Québec, đồi
Abraham, lâu đài
Frontenac và thác Montmorency.
Con trai làm việc 5 ngày ở Québec,
cuối
tuần
nó lái xe về nhà ở Montréal.
Năm
2002, con gái tôi ra trường
nha khoa và đi làm ở thành phố Sept-Iles ở miền
bắc Québec cách Montréal gần
1000 km. Sept-Iles nằm
trên cửa
sông St-Laurent với
dân số 30.000
người.
Con gái tôi làm việc trên đó được 10 năm mới trở về làm
tại Montréal. Trong thời
gian đó,
mỗi năm hai lần
vợ chồng
tôi đi xe bus lên
thăm con gái.
Chuyến
hành tŕnh của
chúng tôi kéo dài 14 tiếng đồng hồ. Từ Montréal
chúng tôi đi xe bus Orléan
Express đến
Québec. Từ đây, chúng tôi lấy
bus Intercar đi Sept- Iles. Dọc đường đi, quang cảnh thật hùng vĩ và
ngoạn
mục v́ một
bên là núi cao và một
bên là biển
sâu. Chúng tôi phải
qua phà ở Tadoussac
và xe bus đổi
tài xế ở Baie-Comeau. Mỗi
ngày chỉ có
một chuyến
xe bus đi Sept-Iles.
Mỗi
lần lên thăm con gái,
trên đường
về, nh́n quang cảnh
núi rừng
hoang vắng
bên phải
, tôi bùi ngùi suưt rơi nước
mắt v́ thương cho con gái
tôi sống
một thân một
ḿnh ở một nơi xa xôi
như vậy. Ở thành phố Sept-Iles này
, ban đầu
nó là người
Việt
duy nhứt
sống ở đây, sau đó
có hai vợ chồng bạn
nó cũng là
người
Việt
làm việc ở bệnh
viện
Sept-Iles lên đây
rồi sau vài năm hai người đó đổi
về gần
Montréal th́ nó trở lại là người
Việt
duy nhứt ở thành phố này.
Con trai tôi chỉ làm việc
một thời
gian ngắn ở thành phố Québec
rồi về làm
tại Montréal v́ ngành của
nó tập
trung tại
thành phố lớn. Măi tới
năm 2012, gia đ́nh tôi mới tập
trung đầy đủ tại Montréal.
Những
năm đầu định cư ở Montréal thật là vất
vả cho chúng tôi. Hai đứa
con c̣n nhỏ,
chúng tôi phải
lo cho chúng ăn học đến nơi đến chốn. Vợ tôi
may ngày may đêm,
c̣n tôi ban ngày đi làm
hăng, ban đêm
phụ vợ may. Đến
khi hai con ra trường đi làm, chúng tôi mới
thấy
nhẹ nhàng.
Tôi c̣n nhớ câu
nói của
Nguyễn
B́nh Tưởng,
bạn tôi định
cư ở Toronto, là anh cảm thấy
ḿnh đă
hoàn thành bổn
phận
làm cha mẹ khi đứa con gái anh vừa tốt
nghiệp
dược sĩ.
Gần
10 năm kể từ ngày định
cư ở Montréal, mùa hè năm 1997, gia đ́nh tôi và gia đ́nh hai đứa
em vợ gồm 9 người
chất đống lên một chiếc
xe van thuê 7 chỗ đi qua Boston, Hoa Kỳ để thăm anh Xuân, người anh chú bác của vợ tôi.
Khi qua trạm
quan thuế ở biên giới,
nhân viên quan thuế trố mắt
nh́n, ngạc
nhiên khi thấy
chừng ấy người
chen chúc trên xe. Đó
là lần đi chơi xa đầu tiên của vợ chồng tôi sau bao năm miệt
mài “cày bừa”.
Anh Xuân là một sĩ quan hải
quân, hạm
phó chiến
hạm HQ 403, trong ngày 30/4/75 đă
theo tàu ra đến
Côn Sơn, nhưng v́
vợ con c̣n kẹt
lại nên sau khi hạm
trưởng
sang tàu của
hạm đội
Mỹ, anh lái tàu trở về Việt
Nam cùng một
số người
hoàn cảnh
giống
như anh. Về sau,
anh cũng ra đi sang
định cư ở miền đông
bắc Hoa Kỳ.
Vợ anh đi làm để cho anh học lại đậu bằng kỷ sư điện và đi làm cho Hải
Quân Mỹ.
T́nh cờ,
anh lại
học chung với
Huỳnh
Ngọc
Côn, trước
75 là giáo sư Lư Hoá
, tốt
nghiệp
cùng khoá đại
học sư phạm
với tôi và là em của
bạn tôi, Huỳnh Đạt Bửu.
Năm
2002, lần đầu
tiên vợ chồng tôi đi với
vợ chồng
anh Châu, đi
qua Toronto dự đám cưới
con gái của
Nguyễn
B́nh Tưởng.
Toronto là thành phố lớn nhứt
của Canada và cũng là
nơi tập trung đông đảo
cộng đồng
người
Á Châu: Tàu, Ấn,
Việt...Cuối năm 2015, vợ chồng tôi qua Toronto để dự tang lễ của Nguyễn
B́nh Tưởng.
Trước đó, lần
nào sang Toronto, chúng tôi đều
ghé và ở nhà
của Tưởng.
Năm
1999, sau 7 năm rời khỏi Việt
Nam, vợ tôi
về nước
thăm gia đ́nh.
May mắn,
nàng đă
có dịp ở chơi với
người
mẹ mà năm sau bà
ra đi vĩnh viễn.
Ba năm sau, vợ tôi
trở lại Việt
Nam để tiễn đưa người
cha đến
nơi an nghỉ cuối cùng. C̣n tôi từ ngày
ra đi năm 1986 đến
năm 1992, ba tôi mất, tôi không có điều
kiện
trở về để đưa ông ra đi.
Little Saigon (Tiểu Sài G̣n) thường được gọi là thủ đô của
người
Việt
tỵ nạn,
là khu vực
gồm nhiều
thành phố nhỏ : Anaheim, Garden Grove,Westminster, Santa Ana,
Fountain Valley... thuộc
Orange County (quận
Cam), tiểu
bang California, Hoa Kỳ.
Trước
năm 1975, vùng nầy là một
khu vực
trồng
trọt,
nhưng từ ngày
những
người
Việt
tỵ nạn ở trại
Pendleton cách Westminster 50 dặm
về phía nam và ở
các tiểu
bang khác đến đây định
cư th́ dần
dần nơi đây
là nơi tập
trung đông đảo người Việt nhứt
trên thế giới ngoài nước
Việt
Nam.
Đồng thời các cơ sở thương mại, truyền thông, dịch
vụ...mọc
lên ngày càng nhiều ở đây
khiến
người
ta cảm
tưởng rằng sống ở đây
giống
như ở Sài
G̣n trước
năm 1975. Little Saigon trở thành
“thánh địa” của
người
Việt
hải ngoại.
Dù ở các
tiểu
bang khác của
Hoa kỳ hay ở các nước
khác kể cả ở Việt Nam, ai cũng mong có
dịp ghé thăm nơi này
ít nhứt
một lần. Ở đây,
người
ta có cơ hội
gặp lại
người
thân, bạn
bè, lối
xóm hay những
nhân vật
tên tuổi ở Việt
Nam trước
năm 75.
Lần đầu tôi sang Little Saigon là năm 2002. Chiều ngày 24 tháng 12 vợ chồng
tôi bay qua thành phố San
José và đón
Giáng Sinh ở nhà
người
em gái của
Vũ, em cột chèo của tôi. Sáng hôm sau, vợ chồng tôi, vợ chồng Đào
(em vợ tôi),
gia đ́nh
các anh em của
Vũ và bạn
bè của
họ ở đây, cùng đi chung một
chiếc
xe thuê 15 chỗ đi chơi kinh đô cờ bạc
Las Vegas. Từ San
José đi Las Vegas chúng
tôi đi qua sa mạc
Nevada mất
10 tiếng đồng hồ.
Có 79 ṣng bạc ở Las
Vegas nằm
trong khách sạn.
Mỗi khách sạn được xây dựng và trang trí màu sắc
sặc sở với những
mô h́nh các biểu
tượng của các địa
danh trên thế giới như tháp
Eiffel của
Paris, kim tự tháp
của Ai Cập,
tháp đồng
hồ của
London... Nổi
tiếng
nhứt
là khách sạn,
ṣng bài Ceasar Palace trong đó
có một
hí viện,
nơi mà các ca sĩ thượng
thặng
của thế giới như Céline
Dion, Diana Ross... tŕnh diễn. Ở đây,
nếu người
ta đi vào
bên trong các khách sạn
với đầy đủ các cửa hiệu,
nhà hàng, dịch
vụ ngoài đánh
bạc và nghỉ ngơi th́ thời
gian như đọng
lại và hầu
như người
ta không c̣n phân biệt được ngày hay đêm.
Sau hai ngày đêm ở Las
Vegas, thời
gian không đủ để tôi trải nghiệm
mọi thứ ở đó,
tôi quá giang xe của
một người
bạn của
gia đ́nh
anh em của
Vũ đi xuống nam Cali.
Từ Las
Vegas đến
Little Saigon mất
khoảng
5 tiếng đồng hồ lái xe. Tôi nói người
bạn của
gia đ́nh
Vũ ngừng trước nhà hàng Viễn Đông
của ông nghị Tony
Lâm và mời
gia đ́nh
chú ấy
vào ăn trưa với
chúng tôi. Trong khi ăn, tôi
gọi điện
thoại
cho Huệ Lan,
em cô cậu
của tôi ra đón
chúng tôi. Sau khi gia đ́nh
người
cho tôi quá giang từ giă
tôi và lái xe đi, chúng
tôi ra ngoài nhà hàng chờ cô
em tôi. Hơn nửa
giờ trôi
qua, chúng tôi không thấy
một người
phụ nữ nào lái xe tới.
Em họ tôi định cư ở Mỹ đă
hai mươi năm và
từng ấy
năm chúng tôi không gặp
nhau, chắc
chắn
gặp nhau chúng tôi khó nhận
ra v́ bao lâu nay chỉ nói
chuyên với
nhau qua điện
thoại.
Tôi để ư
thấy
có một
ông già lái xe hơi chạy
ḷng ṿng trong parking lot như t́m
ai vậy.
Th́nh ĺnh ông ta dừng
xe trước
chúng tôi, mở cửa xe bước
xuống, đến hỏi tôi: ” có phải
anh hai đây
không? “ Tôi nh́n kỷ gương mặt ông già đó, chợt
nhận
ra đó
là Phương, anh của
Huệ Lan.
Nhưng có điều theo tôi được biết là Phương ở bên
tiểu
bang Virginia, phía đông
nước Mỹ mà tại
sao có mặt ở đây.
Tôi hỏi
lại: “có phải Phương đây
không? “. Ông già gật đầu và nói: “năy giờ em chạy
mấy ṿng thấy
hai vợ chồng anh đứng đây mà không dám đến
hỏi v́ không chắc
là anh chị.
Huệ Lan
nhờ em
ra đón
anh chị đây”. Tôi không ngờ Phương nhỏ hơn tôi 4 tuổi
mà trông già hơn tôi
nhiều.
Tôi được
biết
Phương và
gia đ́nh ở thành phố Falls
Church, tiểu
bang Virginia và làm tài xế xe
bus. Phương cho tôi
biết
vợ chồng
nó nghỉ vacation
nhân dịp
lễ Giáng Sinh nên qua đây
chơi.
Nhà Huệ Lan ở đường
Cork, thuộc
thành phố Garden
Grove cách đây
không xa. Huệ Lan đă ly dị và
hiện
sống với đứa con gái nhỏ. Phương và
Huệ Lan
là con của
cô Bảy
tôi. Cô có tất
cả 9 người
con, trong đó
hai người
con trai lớn
cùng trang lứa
với tôi đă
mất trong cuộc
chiến ở vị thế chiến
tuyến
khác nhau như tôi đă đề cập trong chương đầu.
Gia đ́nh
cô c̣n 7 đứa
con tất
cả đều ở Mỹ,
4 đứa ở miền đông và 3 đứa ở miền
tây. Cô tôi, trước đây ở với Huệ Lan,
nay được
các em tôi đưa vào
viện
dưỡng lăo
Hôm sau, tôi mướn một
chiếc
xe hơi để tiện di chuyển.
Tôi gặp
lại các đứa
em ở cùng
xóm với
vợ tôi như Huệ,
Ngọc
Lan và Thạch
là con của
bác Tiệm.
Ngọc
Lan lại
là học
tṛ của
tôi ở trường Nguyễn Trăi. Tôi cũng gặp
Sinh, con gái bác Thợ và
chồng
là Thọ.
Tha hương ngộ cố tri. Gặp
nhau chúng tôi mừng
lắm. Sau khi kéo nhau vào nhà hàng Tàu ăn điểm sấm, nhóm phụ nữ kéo nhau đi
mua sắm, th́ bọn đàn ông chúng tôi đi
uống cà phê ở quán
Dĩ Văng. Ở đây các cô phục
vụ ăn mặc
rất “mát mẻ” nên không ai muốn
về cả.
Thạch ở San Diego, cách khu Little Saigon độ hai tiếng lái xe. Tội
nghiệp,
sau lần
gặp gỡ đó, vài năm sau tôi được tin Ngọc Lan mất đi v́ bệnh
khi vừa
tṛn 40 tuổi.
Trong thời
gian ở nam Cali
, tôi đi thăm cô
bảy tôi. Và tôi cũng không
quên chở vợ tôi đi shopping. Tôi
c̣n nhớ một đêm,
khi tôi mở radio để nghe các đài tiếng
Việt
th́ được
tin ca sĩ Duy Khách
qua đời
tại một
bệnh viện ở Fountain Valley.
Trong hơn 30 năm ở Canada,
tôi đi qua Mỹ chơi mười mấy lần.
Riêng nam Cali, tôi đă
sang đó
bốn lần.
Năm 2007, trong khi vợ tôi về Việt
Nam có công việc
gia đ́nh,
tôi một
ḿnh sang nam Cali ăn Tết
và tham dự tiệc tất
niên của
Hội Đồng
Hương Trà Vinh mà chủ tịch
là anh Văn Tường,
cựu hiệu
trưởng
trường
trung học
bán công Trần
Trung Tiên ở Trà
Vinh, trước
75.
Tôi đi máy bay đến
phi trường
John Wayne, Santa Ana. Ra cửa,
tôi gọi
taxi về nhà
cô em họ ở Garden Grove. Anh tài xế là
người
gốc. Spanish. Anh ta cứ chạy loanh quanh các freeway để câu
giờ dù
tôi đă đưa địa chỉ của
em họ tôi
cho anh. Sau cùng, khi xe tới
ngă tư Brookhurst và
Westminster tôi bảo
tài xế ngừng để tôi
xuống
trước
tiệm
bánh ḿ Lee’s Sandwich, chứ để anh ta t́m đường vào nhà em tôi
th́ chắc
c̣n “hao” hơn.
Tôi băng qua đường, vào một nhà hàng ăn một
tô bún dằn
bụng rồi
xách va li lội
bộ vào nhà em tôi. Rủi
thay, khi đến
nơi, bấm chuông nhiều lần,
tôi không thấy
ai mở cửa. Tôi đă
sơ ư không báo trước giờ đến
của tôi nên nó đă đi làm, không ở nhà
chờ tôi.
Tôi đành
bỏ va li quần
áo trong một
buội
cây rồi đi trở lại ngă tư Brookhurst và
Westminster. Tôi ghé chợ Viễn Đông
mua một
thẻ phone
và vào tiệm
Lee’s Sandwich gọi một
ly cà phê sữa đá và ngồi
chờ Nguyệt Viên, học
tṛ cũ của
tôi ở trường trung học Vĩnh B́nh.
Trước đó, Nguyệt
Viên đă
email cho tôi hẹn
gặp tại đây để cùng
dự buổi
họp mặt
Trà Vinh. Hơn 40 năm kể từ lúc tôi dạy
toán cho lớp đệ nhị B2 của
Nguyệt
Viên đến
nay, thầy
tṛ chưa hề gặp lại
nhưng khi một
cặp nam nữ bước vào và nh́n quanh quất tôi biết đó là vợ chồng Nguyệt
Viên.
Hai người lấy xe đưa tôi
về lấy
va li rồi
chạy
ra khu Phước
Lộc Thọ.
Chúng tôi tới
tiệm
sách Văn Bút
của anh Văn Tường,
nhưng anh Tường đi San Diego chưa về.
Vợ chống
Viên đưa tôi đi dạo quanh khu Phước Lộc Thọ rồi vào ăn ở tiệm
bún mắm
của ca sĩ Thanh Mai. Trở lại tiệm
sách Văn Bút,
chúng tôi gặp
Kim Hữu
Phương, một
học sinh cũ của
Trà Vinh, được
mệnh danh là “thổ công”
của Trà Vinh. Sau này, về Việt Nam tôi gặp
một “thổ công” Trà Vinh khác là Huỳnh
Trung Đông. L‘homme
qui savait trop. Người
ta muốn
biết
lư lịch
một nhân vật
hay một
sự kiện
nào đó ở Trà Vinh th́ cứ hỏi hai ông “thổ công” đó.
Trong lần thứ hai
trở lại Nam Cali này, không những
tôi đă
hưởng một cái Tết ở hải
ngoại
có hơi hướm
cái Tết
của Sài G̣n, tôi c̣n gặp
lại những
người
bạn cũ, học
tṛ cũ ở Trà
Vinh sau gần
nửa thế kỷ không gặp
trong tiệc
"32 Năm Hội
Ngộ” tại nhà hàng Regent West. Tôi cũng
đă đi viếng
khu vui chơi Disney Land. Nhưng
đáng nhớ nhứt là bữa
tiệc
tại nhà anh Vơ Văn Diệu
vừa thưởng
thức
những
món ăn ngon do phu nhân
anh Diệu
khoản đăi, vừa
cười ngă nghiêng với tài kể chuyện hài của
anh Vơ Trung Tín.
Năm
2011, vợ chồng
tôi sang nam Cali dự Đại Hội Cựu
Học Sinh Trung Học
Ngô Quyền
Toàn Thế Giới theo lời
mời của
các em học
sinh cũ của
trường
Ngô Quyền,
Biên Hoà.
Xuống
phi trường
John Wayne, Santa Ana lúc gần
nửa đêm,
tôi mướn
một chiếc
xe hơi để về nhà Huệ Lan.
Em đang ngồi
chờ chúng
tôi với
hai tô phở lớn v́ biết
chúng tôi chưa ăn ǵ
trên máy bay trong suốt
cuộc
hành tŕnh gần
6 tiếng đồng hồ từ Montréal
sang đây.
Ngày hôm sau, tôi lái xe đưa vợ tôi lên thăm bác Thợ và
gia đ́nh
Xinh, con gái bác ở thành
phố nhỏ Hacient Heighs cách Little Saigon độ hơn nửa giờ lái xe. Xinh cũng
đón tiếp
chúng tôi với
hai tô phở lớn như Huệ Lan đêm hôm qua. Nhà Xinh tuy không lớn
nhưng có
một sân nhỏ phía
sau, nơi đó
bác Thợ trồng rau và hoa. Bận
về, tôi theo GPS chỉ chạy theo một
con đường
nhỏ hai
chiều
trên đèo
vào ban đêm
nên khá nguy hiểm.
Tôi cũng lái xe lên thành phố Diamond
Bar, cách nhà em họ tôi
khoảng
45 phút lái xe để thăm anh Nguyễn Quang Hiền. Anh Hiền
là bạn
thân dạy
chung với
tôi ở Trà
Vinh trước
75. Được
biết
anh đang ở một nhà thuộc
loại
như nhà
dưỡng lăo để chăm sóc cho người
vợ bị bệnh. Tiếc
thay, khi tôi tới
th́ không gặp
anh, bà quản
gia khu nhà này cho biết
anh đă
lái xe ra ngoài. Tôi lên pḥng anh. viết
một tin nhắn
trên một
mảnh giấy
dán ở cửa pḥng ghi rằng
tôi đă
có đến đây và để lại số điện thoại của
tôi cho anh.
Hôm sau anh Hiền gọi điện thoại cho tôi. Tiếc
rằng, anh đă
lăng tai, nên cuộc
nói chuyện
theo kiểu “ông nói gà, bà nói vịt” khiến
tôi không hiểu
rơ hoàn cảnh
của anh hiện
nay như thế nào. Đại khái qua tŕnh bày của anh th́ hôm tôi lên thăm
anh th́ anh đă
về nhà con gái anh để thăm các cháu ngoại.
Khi tôi trở về Montréal
ít lâu th́ nhận được thơ của anh Hiền. Trong thơ, anh cho biết
rất cám ơn bạn
bè và học
tṛ cũ đă
lưu tâm thăm hỏi
anh, nhưng hiện
anh mang nhiều
thứ bệnh và bác sĩ cho biết
anh không c̣n sống
bao lâu nên anh dành thời
gian c̣n lại
cho gia đ́nh,
bạn bè và học
tṛ cũ muốn
hỏi thăm anh th́
viết
thơ cho anh, anh sẽ trả lời.
Tôi dùng mạng
chuyển
thơ của
anh đến
mọi người.
Không bao lâu, khi tôi đang ở chơi Việt Nam th́ Nguyễn Quang Hưng, em của
anh Hiền
cũng đang ở Việt Nam cho tôi hay anh Hiền
vừa mất.
Tôi, các bạn đồng nghiệp cùng dạy
chung với
anh ở Trà
Vinh và các học
tṛ cũ của
anh gởi
lời chia buồn
với Hưng.
Chiều ngày 2/7 vợ chồng tôi đến
nhà Kiệt
và Chung ở đường Garden
Grove để dự bữa
tiệc
Tiền Đại Hội Ngô Quyền. Ở đây
tôi gặp
lại các bạn đồng nhiệp dạy
chung ở Biên
Hoà như các
anh: Lê Văn Tuư,
Mai Kiến
Phúc, Nguyễn
Thất
Hiệp...Nhà
Kiệt
và Chung rất
rộng rải
và trong sân nhà có một
hồ tắm
rất lớn.
Các bàn ăn được
bày quanh hồ.
Thầy
tṛ và bạn
học ăn uống
và tṛ chuyện
vui vẻ đến 10 giờ tối
mới ra về.
Sáng chủ nhật
3/7, chúng tôi đến
nhà hàng Sea Food 2 trên đường
Westminster dự Đại Hội Ngô Quyền.
Hàng trăm người
gồm cựu
giáo sư và
cựu học
sinh trường
Ngô Quyền
Biên Hoà đến
tham dự.
Sau buổi
lễ vinh danh các thầy
cô, sau những
bài diễn
văn chào mừng
và những
lời bày tỏ cảm tưởng
là những
màn văn nghệ đặc sắc do chính các em học
sinh cũ của
Ngô Quyền
tŕnh bày. Những
màn tŕnh diễn
nổi bật
nhứt là
: màn họat
cảnh Ngày Xưa Hoàng
Thị với những
cặp học
sinh nam trong đồng
phục
áo trắng
quần
xanh, nữ với áo dài trắng
lă lướt
trong điệu
nhạc
và những
bài hát của
Phạm
Duy phổ thơ của Nguyễn Tất
Nhiên.
Từ ngày
thứ hai
4/7 đến
thứ tư 6/7 hai chiếc xe bus đưa thầy tṛ chúng
tôi đi chơi Las Vegas và
Thung Lũng Lửa
(Valley Of Fire). Trên xe bus, em Nguyễn
Hữu Hạnh
làm hoạt
náo viên rất
linh động,
thỉnh
thoảng
lại cho mọi
người
thưởng
thức
vài câu vọng
cỗ mùi riệu.
Nếu năm 2002, chúng
tôi lạnh
run trong mùa đông
của sa mạc
Nevada th́ mùa hè 2011 chúng tôi như
bị nung trong ḷ lửa
khi viếng
Valley Of Fire. Trong chuyến
du lịch
này, các em cựu
học sinh Ngô Quyền đă ưu ái
miễn
phí cho thầy
cô như bày
tỏ tấm
ḷng “tôn sư trọng đạo” của các em.
Vợ chồng tôi cũng không
bỏ qua chuyến đi du thuyền Carnival 3 ngày từ Long Beach qua Ensenada, Mexico do các em tổ chức.
Em Tô Anh Tuấn đă đưa vợ chồng tôi và gia đ́nh
anh Tuư xuống
bến tàu.
Thọ,
chồng
Xinh chở vợ chồng
tôi xuống
San Diego thăm Thạch,
con bác Tiệm.
Thạch
làm thợ máy
cho hăng xe hơi Toyota nên
khấm
khá. Sẵn
dịp, tôi ghé thăm Huỳnh
Long Thăng cũng dạy
toán. Sân nhà của
Thăng trồng đầy những rau quả nhiệt đới:
cà, thanh long...
Thạch đưa chúng
tôi đi lên
cầu Coronado dài hơn 3 cây
số, bắc
ngang căn cứ hải quân. Đặc
biệt
cầu này không có lối đi cho người đi bộ. Ai muốn tự tử th́ chạy
xe lên giữa
cầu, bỏ xe đó rồi
nhảy
xuống
biển.
Cầu này rất
cao để tàu
có thể chui
qua vào căn cứ hải quân bên dưới
cầu.
Năm
2014, chúng tôi lại
sang Cali nhân dịp Đại Hội Cựu
Học Sinh Nguyễn
Trăi Toàn Thế Giới kỳ 2
tổ chức
tại nam Cali. Ngoài ra, vợ tôi
muốn
gặp thằng
em mới định cư ở Mỹ và đang t́m
việc
làm tại đây. Chúng tôi đi
máy bay thẳng
từ Montréal sang Los Angeles. V́ máy bay bị trục
trặc
kỷ thuật ở sân bay Montréal nên chúng tôi đến
Los Angeles trễ hơn hai tiếng. Chúng tôi đi shuttle bus từ Los
Angeles đến
nhà đứa
em họ ở Little Saigon. Xong, tôi nhờ em
tôi lái xe đến
chợ ABC đón Hiệp,
em vợ tôi đang chờ chúng tôi mấy tiếng đồng hồ ở đó. Chúng tôi đi
ăn phở ở một tiệm
gần đó.
Sáng bữa sau, tôi đi mướn
xe để có
phương tiện
di chuyển.
Tối lại,
chúng tôi đi tham dự tiệc nhẹ của đêm
Tiền Đại Hội tại
Anaheim Convention Center không xa nhà của
Huệ Lan
mấy. Tuy rằng, đây là cuộc
họp mặt
của các cựu
học sinh trung học
Nguyễn
Trăi nhưng đa số các
cựu học
sinh này thuộc
thế hệ học
sinh theo học
khi trường
Nguyễn
Trăi vừa
chuyền
từ miền
Bắc vào Nam trong đợt
di cư 54, do đó
họ thuộc
lứa tuổi
60, 70 tức
là ngang với
tuổi
của tôi năm đó.
Do đó
có một
chuyện
buồn
cười xảy ra: khi vợ chồng tôi ngồi
vào bàn trên có để tấm bảng
nhỏ đề “Giáo Sư” th́
có một
anh đi lại
chỗ tôi
ngồi
và nói: “xin lỗi
anh, chỗ này
dành cho các giáo sư”. Tôi
mỉm cười
nói với
anh ta:”Vậy tôi là giáo sư
Nguyễn Trăi có được
ngồi đây không?” Anh ta xin lỗi
tôi và nói: “ Tại thầy trông trẻ quá”.
Tôi nói: “ Tôi đă đến tuổi thất
thập
cỗ lai hy.” Anh ta
cười và nói: “Tôi cũng đă 70 rồi”.
Tối
hôm sau, tôi lái xe chở vợ tôi đến
nhà hàng trong khách sạn
Hilton ở Costa
Mesa dự đại hội Nguyễn
Trăi. Trong khung cảnh
sang trọng
của khách sạn
nổi tiếng
hàng đầu
trên thế giới , khoảng
500 thầy
cô và cựu
học sinh Nguyễn
Trăi của
nhiều
thế hệ đă
có một đêm họp
mặt trang trọng
và vui vẻ với một
bữa tiệc
ngon miệng
và một
chương tŕnh
văn nghệ phong phú do
chính các cựu
học sinh tŕnh diễn.
Dịp này tôi gặp
lại một
số đồng
nghiệp
cùng dạy ở Nguyễn
Trăi như: anh Lê
Triều
Vinh, Hà Tường
Cát, chị Bùi
Bích Hà, Nguyễn
Mộng Thuư...Đặc
biệt,
tôi gặp
lại thầy
cũ của tôi là giáo sư Lưu Trung Khảo. Vài năm sau tôi được tin thầy Khảo
qua đời.
Cũng
trong chuyến đi này,
một số em
cựu học
sinh trường
Ngô Quyền,
Biên Hoà như Lữ Công
Tâm, Nguyễn
Hữu Hạnh,
Mai Trọng
Ngăi, Ma Thị Ngọc Huệ.. có
nhă ư mời
vợ chồng
tôi đi ăn ḅ
bảy món ở một nhà hàng gần
góc đường
Westminster và Brookhurst. Nhân dịp
này tôi gặp
lại anh Lê Quư Thể , đồng nghiệp dạy
môn lư hoá ở trường Ngô Quyền.
Nguyễn Thị Kim
Huệ,
học tṛ cũ của
tôi ở Trà
Vinh có nhờ tôi
lên Riverside thăm con gái
của Huệ đang ở đó. Sẵn
dịp này, tôi chở Hiệp đi theo chơi và
thử xem ở Riverside có việc
ǵ cho Hiệp
làm không.
Được
tin vợ chồng tôi và Hiệp
qua nam Cali, những người lối xóm gần
nhà bên vợ tôi
: gia đ́nh
bác Thợ,
gia đ́nh
bác Tiệm
và Thuư, học
tṛ cũ vủa
tôi ở Nguyễn Trăi và là bạn
của Đào,
em vợ tôi
cùng chúng tôi đi ăn chung ở một nhà hàng. Vài năm
sau, Thọ gọi điên thoại
báo tin bác Thợ mất.
Để kết thúc chuyến
hành tŕnh , chúng tôi đi
xe đ̣ Hoàng lên bắc
Cali để thăm vợ chồng Trần
Nguyệt
Viên ở thành
phố Antelope,
gần San Francisco. Nhân cơ
hội này, tôi nhờ Đức, chồng Nguyệt
Viên chở đến thăm ông anh họ của
vợ, anh Xuân đă
dọn nhà từ Boston
qua thành phố nhỏ Lincoln. Ngoài ra, trong chuyến đi bắc
Cali lần
này, tôi đă ở chơi với
một số em
cựu học
sinh Trà Vinh như Huy, Sơn...ở Oakland.
Huy đă
chở tôi đi một ṿng thành phố San Francisco với
cây cầu
nổi tiếng
Golden Gate và chính Huy đă đưa tôi ra xe đ̣ Hoàng về lại Little Saigon để chuẩn bị trở lại
Montréal.
Montréal ở phía đông
của lục địa Bắc Mỹ (
Canada, Hoa Kỳ và
Mexico ), cùng phía với
với Boston, New York, Washington DC...là những thành phố chúng
tôi thường
lui tới
bằng xe. Từ Montréal
theo xa lộ 15
Sud đến
biên giới
Canada-Hoa Kỳ độ 80km, khoảng 1 giờ lái
xe. Ở đây, có một
trạm
kiểm
soát quan thuế,
trước đây người
bên phía Canada muốn
qua Mỹ chỉ cần
tŕnh bằng
lái xe hay thẻ công
dân nhưng sau vụ khủng bố 11/9/2001 ở New York th́ người
ta phải
xuất
tŕnh passport mới được đi qua.
Từ biên giới
người
ta cứ đi theo xa lộ I-87 S (nối tiếp
của xa lộ 15
S bên phía Canada) đi thêm
hơn 5 giờ nữa sẽ tới thành phố lớn nhứt
của Mỹ và
cũng là trung tâm tài chánh của
thế giới: New York. Cũng chỉ mất khoảng
6 tiếng đồng hồ lái xe người
ta đi từ Montréal đến Boston, thành phố có trường đại học danh giá nhứt
nước Mỹ: Havard và học
viện
kỹ thuật
nổi tiếng
trên thế giới: MIT (Massachusetts Institute of Technology). C̣n để đi Washington DC, thủ đô của
Hoa Kỳ từ Montréal, người
ta lái xe mất
10 giờ.
Chúng tôi đă hai lần đến Boston để thăm anh Xuân lúc anh c̣n ở đó
và nhân tiện đi tắm biển ở Cape
Cod, nơi xuất
thân của
gịng họ Kennedy.
Chúng tôi cũng nhiều
lần đến
New York để dạo Time Square về đêm và nhứt
là ghé Woodberry Oulet cho vợ và
con gái tôi mua sắm (
phụ nữ nào cũng thích đi shopping!).
Chúng tôi cũng từng đi tới Atlantic City để ghé ṣng bài Casino ở đó
hay đi Wildwoods để tắm biển
và ăn hải
sản. Nhưng chuyến đi dài ngày nhứt ở phía đông
Hoa Kỳ là
vào mùa hè năm 2002.
Năm
đó, con gái tôi vừa
ra trường
nên chúng tôi quyết định tổ chức
một chuyến
du hành bằng đường bộ qua Vỉginia
trước
khi nó đi làm.
Trạm đầu tiên chúng tôi ghé là thành phố Stirling để thăm Trần Kim Hoàng dạy lư hoá ở trung
học Vĩnh B́nh
chung với
tôi. Hoàng có một đứa con trai lớn hơn con trai tôi
một tuổi.
Mấy năm trước,
gia đ́nh
Hoàng có lái xe qua Montréal thăm tôi
và Nguyễn
Trung Hiếu.
Hoàng đưa chúng tôi đi viếng những thắng
cảnh ở thủ đô
Washington như Toà
Bạch Ốc, Điện Capitol, Đài Tưởng
Niệm
58.000 binh sĩ Mỹ tử trận
trong chiến
tranh Việt
Nam... Cháu Minh, con trai của
Hoàng hướng
dẫn chúng tôi đến
nhà những đứa em họ, con cô bảy
tôi ở đây. Mọi
người
hẹn nhau đi ăn ở một nhà hàng ở Eden
Center, thành phố Falls
Church. Đây
là một
buổi
họp mặt
có đông đủ người trong gia đ́nh tôi và các em họ tôi
ngoại
trừ Phương bận đi làm cũng như cô
bảy, gia đ́nh
Huệ Lan
và gia đ́nh
Bảy ở bên
Cali. Đặc
biệt,
vợ chồng
Oanh từ Oregon đi xuyên bang qua đây được mấy
ngày rồi.
Từ giă
Hoàng và các em, chúng tôi đi
xuống Vỉginia
Beach tắm
biển.
Chúng tôi đă đặt trước khách sạn ở đó. Đặc
biệt
khách sạn
này có nhà bếp
với đầy đủ dụng cụ nấu nướng.
Chúng tôi ra siêu thị mua
thực
phảm
về khách sạn
và vợ tôi
trổ tài
nấu nướng
của nàng làm chúng tôi ăn
uống ngon miệng
và thoải
mái hơn ở nhà
hàng. Khách sạn
nằm ngay băi biển
nên chúng tôi chỉ cần đi vài
bước là tới nước.
Mùa hè năm 2009, tôi lên mạng vào Expedia. đặt
3 vé máy bay và khách sạn đi từ Montréal đến Orlando thuộc tiểu
bang Florida. Trên thế giới có 5 công viên vui chơi
Dísney (Disney Park): Mỹ có
hai và Pháp, Nhật,
Hồng Kông mỗi
nơi có một.
Riêng ở Mỹ th́ có Disneyland ở thành
phố Anaheim,
nam Cali và Walt Disney World ở Orlando.
Tôi đă đi chơi ở Disneyland ở Anaheim năm 2007 nhân
chuyến
qua Cali dự Họp Mặt Đồng Hương Trà Vinh. Nhưng Orlando là nơi tập trung nhiều công viên giải
trí nhứt:
Walt Disney World, Magic Kingdom, Animal’s
Kingdom, Universal Studio, Gatorland, Seaworld...
Chúng tôi thuê một căn hộ (apartment)
có hai pḥng ngủ,
pḥng khách , nhà bếp
với đầy đủ dụng cụ nấu nướng, ăn uống. Trước mặt chúng tôi, qua cửa
kính là một
hồ bơi rất
rộng mà ban ngày không lúc nào vắng
người
bơi. Chung quanh khách sạn là những
vườn hoa với những
băng ghế để ngồi nghỉ ngơi, ngắm hoa.
Không đủ thời gian để vào
hết các công viên giải
trí trong một
tuần
lễ ở Orlando,
chúng tôi chỉ đi chơi Disney World, Magic Kingdom, Animal’s Kingdom
và Gatorland. Vé vào cửa
mỗi nơi thời đó cũng từ 50 đến 100 đô mỗi
người.
Wald Disney World cũng giống như Disneyland chỗ khác, có những tṛ chơi và
h́nh tượng
trong các phim hoạt
h́nh và phiêu lưu của
Walt Dísney. Chúng tôi đi tàu
như những
nhà thám hiểm
Anh khám phá rừng
rậm Phi Cháu đầy
cá sấu,
hà mă... dưới
sông và voi, cọp,
beo, sư tử,
rắn ...trên bờ.
Chúng tôi viẽn
du trên biển
qua các lục địa như Marco Polo hay Christophe Colomb để nh́n
các biểu
tượng đặc trưng mỗi nước như tháp Eiffel của
Pháp, kim tự tháp
của Ai Cập,
vạn lư trường
thành của
Trung Quốc..,hay
những
cô gái Việt
Nam với
áo dài, nón lá và những
con trâu đen kịt,
sừng dài. Trong công viên, những
lâu đài đẹp rực rở như trong nhũng phim cổ tích
Bạch Tuyết
và bảy
chú lùn hay nàng công chúa ngủ trong
rừng làm chúng tôi tưởng
ḿnh đang là
những
nhán vật
trong các phim đó.
Những
con khủng
long giả với những
tiếng
gầm điếc
tai làm người
ta nhớ tới phim Jurrassic Park của
nhà đạo
diễn
kỳ tài Steven Spielberg. Để vào
công viên Disney World chúng tôi đi
bằng tàu. Khi tàu đến
gần công viên, chúng tôi thấy
trước
mắt như là
khung cảnh
của một
vương quốc ở Âu Cháu thời
trung cỗ thật tuyệt đẹp như tranh vẻ.
Ở Magic
Kingdom, buổi
chiều
có cuộc
diẽn
hành với
các biểu
tượng trong các phim họat h́nh của
Walt Disney như chú
chuột
Mickey, con vịt
Donald... và buổi
tối có màn bắn
pháo bông rất
ngoạn
mục. Ở Animal’s Kingdom người
ta có thể nh́n
ngắm
những động vật hoang dă trong một
khu đất
rộng hơn 400 trăm mẫu.
Chúng tôi đến
Gatorland để xem
những
con cá sấu đủ loại mà Florida là nơi
có nhiều đầm lầy đầy
cá sấu. Đặc biệt ở đây có một
loại
cá sấu
trắng
tôi chưa bao giờ thấy. Chúng tôi xem một
màn biểu
diễn đọ sức giữa
người
và cá sấu,
tuy nhiên không toát mồ hôi
lạnh bằng
màn biểu
diễn
tôi từng
xem ở Thái
Lan khi mà người
biểu
diễn
dám đưa tay hay đầu
vào miệng
cá sấu đang mở to.
Con gái tôi lái xe chở chúng tôi xuống
Cacoa Beach để tắm biển. Ở đây
cách Orlando 60 dặm độ hơn một giờ lái xe. Tôi không ngờ ở đây
nóng đến độ khi đi chân trần
trên băi cát th́ tôi cảm
thấy
rát cả ḷng
bàn chân.
Chuyến du lịch
của chúng tôi ở Orlando
kể ra cũng vui vẻ duy
chỉ có
một sự kiện không vui là có một
hôm chúng tôi đi shopping ở Orlando
International Premium Outlet, khi ra về , mở cửa
xe th́ cái GPS và đồ đạc trong xe của chúng tôi không cánh mà bay.
Như
đă nói trên, tôi từng
nhiều
lần sang Mỹ cả phía đông
lẫn phía tây từ New
York đến
California và hai lần đi về phía trung bắc: Chicago và trung nam: Houston. Riêng chuyến đi Chicago, Illinois năm
2012 chỉ có 4 ngày. Một
sự kiện đáng nhớ của chuyến đi Chicago là khi check-in và gởi hành lư xong, đến
quầy
an ninh, không biết
họ nh́n tôi giống
một tên tội
phạm
nào không mà chỉ tôi
vào văn pḥng
hải quan của
Hoa Kỳ.
Tuy đây
là sân bay của
Canada nhưng nếu
ai đi qua Mỹ hay
quá cảnh
Mỹ phải
qua khu an ninh và hải
quan của
Mỹ đặt
tại đây.
Bước vào văn pḥng nh́n thấy
lá cờ sao
sọc thật
lớn đứng
sừng sửng,
ngạo
nghễ như chứng tỏ thế lực của
một đất
nước hùng mạnh nhứt
thế giới. Một
bà Mỹ ở lứa
tuổi
trung tuần đang ngồi tại bàn ra dấu
cho tôi ngồi
xuống
ghế.
Bà hỏi
tôi lư lịch,
nghề nghiệp, nơi và
mục đích đến Mỹ. Bà ta c̣n bảo
tôi móc tiền
túi đem theo cho bà
thấy
và gọi
cho mang hành lư đă
kư gởi
của tôi để khám
xét. Khi không t́m thấy
ǵ bá ta mới
buông tha tôi. May nhờ tôi
tới phi trường
sớm nên lần đó tôi không bị trễ máy bay.
Chicago được mệnh danh là thành phố gió
(Windy City) v́ những
luồng
gió lạnh
thổi
từ hồ Michigan
toả ra
khắp đường phố ở đây. Chicago nổi
tiếng
với tháp Willis cao 527 m, đứng
thứ 3
sau tháp Burj Khalifa ở Dubai
và tháp CN ở Toronto,
Canada. Tháp gồm
110 tầng
cộng với
3 tầng
hầm. Trên tầng
thứ 103
có Sky Deck với
kính chung quanh từ đó du khách có thể ngắm nh́n toàn thành phố.
Chicago c̣n có bến
tàu Navy Pier nơi mà
những
tối thứ tư và thứ bảy có bắn
pháo bông vào mùa hè và có du thuyền đi trên hồ Michigan.
Tôi đă
ngồi
trên một
du thuyền ở đó để nh́n toàn cảnh thành phố Chicago
với những
toà cao ốc
và để thấy nước
hồ xanh ngắt
không có một
cọng rác. Chicago c̣n nhiều
thắng
cảnh khác đáng để thăm viếng như các công viên Millennium Park, Grant Park; viện bảo
tàng khoa học
và kỹ nghệ; vườn
bách thú Lincohn...
Chicago c̣n nổi tiếng
qua nhân vật
Al Capone, một
tay trùm mafia từng
làm mưa làm
gió tại đây trong những
thập
niên đầu
của thế kỷ 20. Có một điều tôi thấy ở Chicago
là xe lửa ở đây
có đoạn đi trên mặt đất và có đoạn đi trên không mà đoạn đi trên không trông có vẻ không
an toàn v́ đường
ray làm trên sàn gỗ cũ kỷ, mỗi lần đoàn tàu chạy
ngang làm rung rinh sàn gỗ tưởng như đoàn tàu sẽ rơi xuống đường.
Đấu
năm 2018 trên đường về Việt
Nam, tôi ghé Honolulu, Hawaii chơi
một tuần.
Tôi có vợ chồng một
người
bạn mới
quen định
cư ở đây là anh Thành và chị Tạo, chị này
là chị vợ của Đinh Quang Hảo , người bạn đồng
nghiệp
và cũng dạy
môn toán với
tôi. Hè năm 2017, vợ chồng anh Thành và vợ chồng Hảo
có qua Montréal chơi với
vợ chồng
tôi mấy
ngày.
Máy
bay tôi quá cảnh ở Toronto trước
khi tới
Honolulu. Tới đây, trời
quá nửa đêm. Khi check-out, hành lư vợ chồng tôi bị giữ lại
v́ tôi khai ở lại Honolulu có một
tuần
mà mang vào tới
4 chiếc
va-li. Tôi nói rằng
tôi sẽ đi tiếp về Việt
Nam. Tôi định đưa vé máy bay về Việt
Nam cho ông ta xem, nhưng ông
ta khoát tay và chỉ vào
một quầy
khác. May mắn, ở quầy
này, chúng tôi được
cho qua khi anh hải
quan Mỹ xem
vé máy bay đi Việt
Nam của
tôi. Tôi gọi
cho anh Thành, nhưng không
ai trả lời. Chắc
quá khuya nên gia đ́nh
anh Thành đă
ngủ hết. Tôi đành
ra đón
taxi về nhà
anh Thành. Tôi nghe nói, ở Hawaii, đa số tài xế taxi là người
Việt.
Tôi lên xe của
một người
Á Châu.
Nhưng khi bắt
chuyện
với anh ta mới
biết
anh ta là người
Miến Điện.
Tới
nơi, tôi bấm
chuông nhiều
lần mới
thấy
anh Thành ra mở cửa. Đúng
như tôi đoán, anh Thành chờ tôi
gọi để ra
phi trường đón tôi. Chờ hoài
không nghe tôi gọi
nên anh ngủ quên
luôn. Chúng tôi vừa
vô tới
trong nhà th́ chị Tạo cũng đă
thức
dậy hâm nồi
cháo gà cho chúng tôi ăn.
Nhà anh Thành rất lớn,
hai tầng,
6 pḥng ngủ,
các pḥng khác đều
rộng thênh thang. Anh chị có
3 đứa
con, một
trai đầu
ḷng và hai gái. Đứa
gái út chưa có
gia đ́nh.
Anh chị có
3 đứa
cháu. Tất
cả đều ở chung nhà này. Đứa
gái út tên Thảo
rất tháo vát. Nó mở một tiệm
hớt tóc cho mẹ nó
và chị dâu
làm chung với
nó. Tiệm
rộng răi, nên nó cho người
ta mườn
lại hai pḥng để làm
massage và nail. Đứa
con gái lớn
tên Tâm làm môi giới
bán nhà. Con trai lớn
của anh Thành th́ cắt
tóc cho binh sĩ trong căn cứ hải quân.
Gia đ́nh anh Thành rất
hiếu
khách. Suốt
một tuần ở đây,
họ thay phiên nhau chở vợ chồng
tôi đi thăm các
nơi.
Anh Thành chở chúng
tôi đi viếng
Trân Châu
Cảng (Pearl Harbor), phố Waikiki,
tắm biển,
chùa Nhật
Bản, chợ Tàu,
chợ Tây...Con
trai lớn
chở đi thăm căn cứ hải quân, Tâm chở đi xem băi biển ban đêm
và Thảo
chở đi xem thành phố Honolulu nh́n từ trên đồi cao.
Chúng tôi để dành một ngày để gặp vợ chồng một
em học
tṛ cũ ở Trà
Vinh của
tôi: Nguyễn
Văn Huệ và Mai Trường Phượng. Huệ hiện
làm giáo sư ở đại học Hawaii, thường đỡ đầu cho những sinh viên tŕnh luận
án tiến
sĩ.
Hai vợ chồng
tôi đi một
tour bằng
tàu ở phía
bắc của
Honolulu để xem
cá voi và cá heo. Honoluu là thủ đô của
Hawaii, tiểu
bang thứ 50
của Hoa Kỳ và
nằm trên đảo
Oahu một
trong 19 đảo
của quần đảo Hawaii.
Ngày 4/5/2012 lần đầu
tiên chúng tôi làm một
chuyến
du lịch
sang Âu Châu. Chúng tôi đáp
máy bay sang Paris. Khi tôi xuống
phi trường
Charles De Gaulle th́ Nguyễn
Quang Hưng
và Trần
Tuấn
Kiệt đă có mặt ở đó đón chúng tôi. Hưng ở Paris,
c̣n Kiệt ở Munich, Đức
nghe tin chúng tôi qua Pháp nên bay qua đây
chơi với
chúng tôi.
Hưng lái xe chở chúng
tôi đi thăm các
thắng
cảnh của
Paris như tháp
Eiffel, nhà thờ Notre
Dame, Arc De Triomphe, đại
lộ Champs-Élysées, bảo
tàng Louvres, điện
Versailles. Chúng tôi đi ăn ở quận 13, đi vào
thương xá
Tang Frẻres
thấy
bà Thuư Nga phốp
pháp, phấn
son ngồi
trong gian hàng bán băng nhạc
của bà.
Hưng
c̣n đưa tôi đến thăm hai người bạn cũ của
tôi: Thiểm ở Châtillon và Ẩn ở Deuil La Barre.
Chúng tôi chỉ ở Paris có hai ngày. Sáng sớm
ngày thứ 3,
Hưng và Kiệt đưa chúng tôi đến ga Lyon đáp xe lửa
cao tốc
TGV (trạin
à grande vitesse) đi Barcelona, Tây
Ban Nha để lên
du thuyền ở đó.
Ngồi
uống ly cà phê trong nhà ga chờ giờ lên tàu, tôi chợt
nhớ hai
câu thơ trong bài
Tiễn
Em của
Cung Trầm
Tưởng:
“Ga Lyon đèn
vàng,
“Cầm
tay em muốn
khóc”
Từ Paris đến Figueres, trạm ở biên
giới
Pháp và Tây Ban Nha xe lửa
cao tốc
chạy
chỉ mất độ 5
tiếng
rưỡi. Tới đây
chúng tôi phải đổi xe lửa của
Tây Ban Nha để đi Barcelona. V́ khi lấy vé bằng
máy ở Paris,
tôi quên lấy
vé tuyến
Figueres đi Barcelona nên ở ga Figueres chúng tôi không lấy vé của
tuyến
này được
v́ chúng tôi mua vé của
SNCF (Société Nationale De Chemin de Fer). Chúng tôi vẫn lên xe mà ḷng hồi
họp sợ bị nhân viên soát vé bắt
mua thêm vé tuyến
này. May mắn,
suốt
hành tŕnh chẳng
có ai đến
hỏi vé chúng tôi.
Độ một tiếng
rưỡi sau, chúng tôi đến Barcelona. Chúng tôi lấy taxi đến
bến tàu. Ở đây nhiều
du thuyền
của các công ty khác nhau đậu đầy bến. Chúng tôi đến
chỗ làm
thủ tục lên tàu Norwegian Epic.
Đây
là một
du thuyền
mới đóng
năm 2010, cao 18 tầng, lớn hơn du thuyền Carnival
.mà năm ngoái
tôi đi từ Cali
sang Mexico, Trên tàu có đầy đủ mọi tiện
nghi: cabine để ngủ, restaurant để ăn, casino để đánh bạc,
piscine để bơi, sân khấu để tŕnh diễn, spa để massage,
fitnesse để tập thể dục cả tiệm hớt
tóc, làm nail, sân chơi bowling, rạp
xem phim, cà phê internet... ...,
Trên tàu, chúng tôi tham dự những
tṛ vui như ca nhạc,
xem người ta chơi bowling, leo dây.
Tối đến,
chúng tôi vào ca sino kéo máy hay đi
shopping hoặc xem đố vui.
Trời
c̣n lạnh,
nên tôi không có can đảm
nhảy
xuống
hồ bơi như các
ông tây, bà đầm.
Tàu chạy hai ngày một đêm th́ cặp
bến Naples. Chúng tôi lên bờ đi xe chạy quanh thành phố
(citysightseeing) có tên là hop on, hop off, nghĩa là ḿnh có thể
xuống bất cứ chỗ stop nào của xe, đi loanh
quanh dạo xem phong cảnh hay đi shopping, sau đó
trở lại chỗ stop lấy xe hop on hop off khác đi
tiếp . Giá vé là 22 Euro dùng cả ngày . Chúng tôi
ngồi ở tầng trên để quay phim .
Pháo đài thành phố Naples
Naples có một pháo đài cỗ sát bờ biển
dấu tích nơi pḥng ngự mặt biển của
đế quốc La Mă ngày xưa . Ở Naples, các
shop nằm dài ở mặt tiền các con đường
ở downtown . Giá cả rất mắc,
nhưng có tiệm ḿnh có thể trả giá
.Bọn đen và Bangla Desh th́ bán chạy ngoài
đường những thứ hang hiệu dỏm. Các nhà
hàng đa số bán Pizza
Ngày thứ sáu, tàu ghé cảng Civitavecchia (Ư), chúng
tôi lên bờ lấy xe lửa đi Rome . Thành
phố Rome vẫn c̣n giữ những di tích của thời
đế quốc La Mă với đấu trường
Colosseum,
đền Pantheon, quảng trường
Ceasar, cổng chào Constantine....hùng vĩ trơ gan
với thời gian , ghi lại giai đoạnlịch
sử huy hoàng của nước Ư những thế kỷ
trước và sau công nguyên .
Tượng “T́nh
yêu thủy thủ” ở cảng Civitavecchia
Rất tiếc, chúng tôi không có thời gian
để đến thăm những công trinh lịch
sử đó mà chỉ ngồi trên xe hop on, hop off quay phim và
chụp h́nh . Chúng tôi cũng không có thời gian
để ghé thăm ṭa thánh Vatican v́ sợ
lỡ tàu .Rome nói riêng và Ư nói chung, nhà cửa cũng
như ở Pháp, Tây Ban Nha hay hầu hết các nước
Âu Châu khác đều cũ kỹ, đừơng sá
chật hẹp, xe hơi nhỏ, đít bằng để
thích ứng, đặc biệt nhiều xe gắn máy
(vẫn thuaVN) để dễ di chuyển .
Ngày thứ bảy, tàu ghé cảng Livorno (Ư), tàu cho
xe bus chở hành khách ra downtown của Liverno . Chúng tôi
lấy xe bus đi tới ga xe lửa mua vé đi Florence
.Tiếc rằng, Florence đang thực hiện công
tŕnh sửa chữa downtown nên xe hop on hop off chỉ chạy
bên ngoài thành phố nên không có dịp ngắm vác kiến trúc
cỗ của thành phố này . Bận trở về tàu chúng
tôi định ghé thành phố Pisa nơi có tháp nghiêng nổi
tiếng nhưng sợ trễ tàu nên chúng tôi không ghé.
Một kiến
trúc đặc thù của thành phố Livorno
Ngay thứ tám, tàu ghé thành phố Cannes
của Pháp . Rất tiếc, đại hội
điện ảnh quốc tế Cannes sẽ khai mạc
tuần tới nên chúng tôi chỉ trông thấy người
ta đang chuẩn bị xây dựng khán đài, trăi thảm
đỏ cho buổi lễ...Chúng tôi đi tới trạm
xe lửa để đi Monaco . Xe lửa chạy
dọc bờ biển nên tôi mục kích quang cảnh
ngoạn mục vùng băi biển Côte d' Azur của miền nam
nước Pháp . Khi tới Monaco, một thành
phố thật nhỏ diện
tích chỉ hơn 2km2 đồng
thời là một vương quốc giàu có nhờ ṣng
bạc Monte Carlo, ṿng đua Formule 1 và khách du lịch .
Một apartment 1000 square feet ở đây giá hơn một
triệu đô la!!!
Thành phố
cảng vương quốc Monaco
Chúng tôi chứng kiến một buổi lễ bàn
giao canh gác của hai toán ngự lâmquân tại cung
điện của ông hoàng Albert II của Monaco lúc 12 giờ
trưa thật là lư thú .
Bận về chúng tôi không có th́ giờ ghé thăm
thành phố Nice, chỉ đi một ṿng downtown của thành
phố Cannes, ngắm các cửa hàng sang trọng mà một
tuần nữa các ngôi sao điện ảnh của Hollywood
và thế giới sẽ đến mua sắm .
Ngày thứ chín, tàu cặp bến ở thành
phố Marseille, thành phố lớn thứ hai
của Pháp . Xe bus do tàu hợp đồng
đưa chúng tôi đến chợ hải
sản của Marseille cũng nằm dọc bờ biển
. Nơi đây, đủ loại cá từ cá đuối
đến cá mâp, mực, cua, tôm hùm ...c̣n sống nhảy
đành đạch được bày bán trên những
sạp bên lề đường
Chúng tôi đi bộ vào trung tâm thành phố, đi
ngang hí viện và ṭa thị chính với lối kiến trúc
cổ điển tương tự Quốc Hội và ṭa
đô chánh của ḿnh ở Sài G̣n . Mơi chân, chúng tôi
trở lại bờ biển mua vé đi một ṿng thành
phốbằng xe bus hop on, hop off .Xe chạy ṿng
bờ biển để mọi người trông thấy
một quang cảnh ngoạn mục. Ngoài những nơi
bờ lổm chổm đá, có những băi tắm nhỏ
mà dù c̣n sớm đă có đông người
tắm biển . Khi xe vào bên trong thành phố, tôi
thấy ở đây nhà cửa cũ kỹ với những
cánh cửa sổ lá sách
giống như ở Việt Nam
Ṭa thị chánh
Marseille
Đường sá th́ chật hẹp, xe hơi
phải đậu hẵn trên lề chỉ chừa hai bánh
bên trái nằm trên mặt đường. Vậy
mà lúc xe bus đang ở trên dốc, khi chặt cua phải
đưa đầu xe ra ngoài dốc cao, nh́n xuống
vực sâu . Tôi ngồi trên và phía đầu xe
cảm thấy toát mồ hôi lạnh, chỉ sợ xe
rơi xuống hố . Xe hơi nhỏ
ngược chiều phải lui lại nhường cho xe
bus trở đầu .
Nghĩ lại, sống ở Canada hay
Mỹ thật sướng, đường sá rộng
rải, nhà cửa mới mẻ thoải mái . Marseille
cũng như các thành phố khác ở Pháp và Âu Châu
mái nhà thường lợp ngói đó làm tôi
nhớ đến Việt Nam .
Cả tuần trên tàu chỉ ăn toàn đồ
tây, chúng tôi thèm món ăn Á Châu, nhất là món ăn
Việt Nam . Hai ngày ở Paris, chúng tôi
được Hưng dẫn đi ăn món ăn VN ở
quận 13, nhưng không ngon bằng ở Montreal và thua xa
Cali. Khi xuống xe bus trở lại bờ biển, tôi
thấy một cái nhà hàng nhỏ che lều trên lề
đường (ở Pháp và Ư, người ta thích ngồi
ăn bên lề đường) có đề các món
ăn VN .chúng tôi vào ngồi, nhưng chỉ thấy
waiter toàn là tây .Tôi ngoắc một anh tây bồi bàn
đến hỏi, đầu bếp ở đây là tây hay
VN .Anh ta trả lời là VN, anh hỏi tôi muốn gặp
đầu bếp không. Tôi gật đầu . Anh ta
ra phía sau và dẫn lên một người đàn bà VN. Tôi
hỏi chuyện bà ta được biết bà ta ở
Thủ Đức . Tôi gọi miến gà, ăn
được, nhưng khi ăn món thứ hai là bún ḅ th́
quá tệ không giống kiểu VN .
Chúng tôi trở về tàu sớm hơn mọi
bữa v́ hôm nay tàu rời bến lúc 4PM. Ngày mai tàu sẽ
chấm dứt hành tŕnh ở Barcelone (Tây Ban Nha).
Ngày thứ mưoi tàu trở về cặp
bến Barcelone (Tây Ban Nha) chấm dứt bảy ngày đi
du thuyền .Chúng tôi lên bờ lấy
taxi đi về ga xe lửa trung ương của
thành phố Barcelone . Chúng tôi đem hành lư gửi tại
nơi giữ hành lư, rồi ra khỏi ga mua vé xe bus hop
on, hop offf đi một ṿng thành phố . Barcelone không
giống những thành phố của Pháp và Ư mà tôi đă
đi qua, đường phố ởđây, rộng rải, khang trang hơn, nhà
cửa xây cất theo kiểu cỗ và tân tùy theo
khu vực không chỉ toàn kiến trúc cũ
như những nơi thầy vừa đi qua trong
những ngày trước . Tuy vậy,Barcelone không
thiếu những kiến trúc đẹp nổi tiếng
như nhà hát Catalan Music (Palau de la MusicaCatalana), building Casa
Batllo của Gaudi, nhà thờ Sacred Family độc đáo
không giống bất kỳ nhà thờ nào trên thế
giới, khu phố Gothic(Gothic Quarter), Barcelona Stadium (Camp Nou)
sân đá banh lớn nhất Âu Châu chứa gần 100 ngàn
khán giả , trụ sở của đội bóng Barcelone
nổi tiếng của Âu
Châu .Đặc biệt, dân Barcelone rất sùng đạo
nên ngày chúa nhựt các shop đều đóng cửa .
Nhà thờ Sacred
Family (Barcelone)
Ngày mai chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc hành
tŕnh bằng xe lửa từ Barcelone trở lại Paris
.
Buổi chiều ngày thứ mười chúng tôi
trở lại ga xe lửa trung ương Barcelone
để đi trở về Paris . Xe chạy
khoảng 2 giờ th́ tới Cerbere, một thành
phố nhỏ của Pháp nằm ở biên
giới Pháp và Tây Ban Nha . Có hai cảnh sát Pháp xét
passport từng hành khách v́ mọi người vừa từ
Tây Ban Nha nhập vào Pháp v́ nơi biên giới
này có người Catalan thường
quậy đ̣i độc lập . Chúng tôi chuyển sang xe
lửa của SNCF (công ty quốc gia đường
sắt của Pháp) . Xe lửa này có vẻ cũ kỷ,
không như xe tốc hành TGV tôi đi từ Paris tới Firgueres
hôm 6-5 . Hành khách chỉ có vài người
. Một bà đen ở bên toa kế đến hỏi
tôi có phải đi Paris không, tôi đáp phải Bà ta nói bà
sợ v́ ở đây vắng vẻ quá .Tôi nói , có
cảnh sát gần đây sợ ǵ .Độ hơn
tiếng đồng hồ sau, xe lửa chạy . Phải
mất gần 10 tiếng để xe đến Paris
. Dọc đường xe dừng nhiều ga, có ga
nghỉ tới 1 giờ.
Lần lần hành khách lên đông hơn
. Xe tới Paris Austerlitz vào khoảng 8 giờ sáng
. Chúng tôi vào một cabine của nhà ga để tắm
rửa, thay đồ mất 6 Euro . V́ 1 giờ
trưa phải lên máy bay về Montreal, Canada nên chúng tôi
đi metro qua gare du Nord, rồi đổi metro đi
phi trường Charles De Gaulle.
Năm 2003, sau khi hai đứa con tôi ra
trường và đă có việc làm: thằng con trai là
kỹ sư điện toán và đứa
con gái là nha sĩ, chúng tôi mới mua nhà ở thành phố
Longueuil cách thành phố Montréal bằng cây cầu Jacques
Cartiers.
Kể từ khi dọn về sống bên kia
cầu Jacques Cartier, bỏ lại đàng sau thành phố
Montreal ồn ào, chật chội, tôi thấy nơi đây
thích hợp với lứa tuổi "mùa đông"
của ḿnh. Khác với thằng con trai tôi, nó thích ở
nơi đô hội (tuổi trẻ mà!), tôi hài ḷng với
mọi thứ ở đâỵ
Từ nhà tôi qua phố Tàu Montreal chỉ mất
độ 15 phút lái xe . Đối với một
người đă không c̣n đi làm như tôi, cây cầu
Jacques Cartier không phải là một trở ngại cho
việc di chuyển v́ tôi chỉ sử dụng cầu này
ngoài giờ cao điểm. Đối với bà xă tôi,
một người thích đi shopping th́ từ Montreal tôi có
thể chở bà ấy đi Mail Champlain hay Quartier Dix-Trente
ở Brossard, Promenades St-Bruno ở St Bruno de Montarville, Le
Carrefour De La Rive Sud ở Boucherville hay qua tunnel Louis-H Lafontaine
để đến Galérie d'Anjou ở Anjou . Nơi
nào cũng chỉ cách nơi tôi ở từ 15 đến 20
phút lái xe . Như vậy là ổn thỏa với
mọi người. Ngoài ra, ở bên này không hề có
cảnh kẹt xe bực ḿnh như bên Montreal.
Ở bên đây không khí trong lành, ít bụi bặm,
cảnh trí nửa quê, nửa tỉnh như cách nói của
các ông bà courtier nhà: "la campagne en ville". Tuy có vẻ kém
phát triển (nghèo) hơn thành phố mới láng giềng
Brossard (nơi mà nhiều cựu đồng nghiệp
của tôi chọn ở) nhưng tôi thích Longueuil hơn v́
ngoài những điều đă nói trên, Longueuil ít "ô
hợp" hơn Brossard: đại đa số dân ở
đây là người C̣i (Québécois), nhờ đó ít có án mạng
và trộm cướp hơn .
Nhưng lư do quan trọng nhất khiến tôi
quyết định chọn Longueuil để ở là giá
nhà ở đây rẻ hơn chỗ khác. Giá một căn
nhà kiểu Bungalo có sân cỏ chung quanh như tôi đang
ở chỉ bằng phân nửa giá ở Montréal và rẻ
hơn vài chục ngàn so với Brossard. Như vậy
vừa với ngân sách khiêm tốn của gia đ́nh tôi
.
Những ngày đầu vừa về ở
đây, bỡ ngỡ v́ vừa mới rời bỏ
kiếp ở nhà mướn bên Montreal, tôi nhờ hai ông Tây
láng giềng hai bên giúp đỡ rất nhiều
. Từ việc cắt cỏ sân nhà, mở, bảo tŕ
và đóng cái piscine hors-terre đến việc dựng tempo
cho xẹ..đều được họ sốt
sắng chỉ dẫn. Đúng là "bà con xa không bằng
láng giếng gần". Dấn dần, tôi quen với
lối sống "nhà quê" ở đây .
Mùa xuân, tôi phải dở cái tempo dài làm chỗ trú
ẩn cho hai chiếc xe của tôi và của thắng con
trong mùa đông; bắc thang leo lên để hốt lá c̣n
vướng trên máng xối trên mái nhà để tránh nước
ứ đọng làm thủng máng xối khi có mưa
. Mùa hè tôi vác cuốc đi đào đất để
bà xă tôi trống hoa ở sân trước và trồng rau
cải ở sân sau, Rồi tôi c̣n bắc ṿi nước
tưới cây, đẩy tondeuse cắt cỏ. Tôi mở
toile solaire che phủ piscine suốt mùa đông vừa qua, ráp
lại ống nước, máy pompe, cho nước vào
đầy hồ, mua clore làm traitement choc cho trong
nước hồ, hút bụi dưới đáy hồ,
vớt lá trên mặt hố để khởi đọng
lại piscine v́ con gái tôi sẽ về nhà nhân dịp hè và nó
thích bơi . Tôi c̣n phải ráp bàn ghế, dựng dù
để ngồi chơi ở sân sau cũng như lau chùi
cái barbecue chuân bị các buôI tụ họp gia đ́nh trong mùa
hè. Mùa đông th́ tôi không thiếu việc làm mỗi ngày là
cào và xúc tuyết. Đó cũng là cách làm "exercice" cho
đến khi nào "hết pin" th́ tôi mới nghĩ
đến việc thuê xe cào tuyết.
Nhưng sống ở đây th́ mùa thu vẫn là
mùa đẹp nhất trong năm. Đó cũng là thời
gian mà tôi thường lan man nghĩ về cuộc
đời ḿnh.
Kể từ sau ngày 30/4/75, tôi cũng như
một số đồng nghiệp "nửa quan, nửa
thầy" (giáo chức biệt phái) như tôi
"được" đi "học tập cải
tạo" vài năm, trở về bị giáng cấp giáo
sư thành giáo viên mà lương tháng không đủ sống
đầy đủ đúng nghĩa một ngày . Đa
số bỏ nghề đi làm những việc linh tinh khác
như đạp xích lô, bán thuốc lá, bán vé số, bán
chợ trời, về quê làm ruộng...
May mắn, tôi qua xứ Canada này và lại ở
vùng Québec nói tiếng Pháp, một ngôn ngữ mà tôi đă
từng học từ tiểu học (dù bị thầy giáo
khẻ tay hoài v́ viết dictée phạm lỗi orthographe).
Mỗi năm hai lần, tôi đi dự party
của Gia Đ́nh Giáo Chức để tự an ủi
rằng ngày xưa ḿnh từng là "kỹ sư của
tâm hồn" và cũng để có dịp hàn huyên cùng các
cựu đồng nghiệp về những kỷ niệm
vui buồn của nghề nghiệp cao quư "làm
thầy" v́ ngạn ngữ có câu: "không thầy
đố mày làm nên".
Khoảng những năm cuối của thập
niên 1980, một số cựu giáo chức Việt Nam
tại Montréal thường họp mặt ăn
uống tại một vài nhà hàng ở
đây. Một hôm, thầy Vương Gia Cần, một
nhà giáo kỳ cựu trước 1975, hiệu trưởng
trường trung học Vương Gia Cần ở Hàng
Xanh đầu xa lộ Biên Ḥa, đặt một câu
hỏi: giáo chức ở đây cũng khá đông, tại
sao chúng ta không thành lập một hội cựu giáo
chức, Từ ư tưởng đó, một số cựu
giáo chức Việt Nam tổ chức một buổi
họp mặt đầu tiên tại nhà hàng Village Royal,
phố Tàu để thành lập một hội mang tên: Gia
đ́nh cựu giáo chức Việt Nam tại Québec mà
trưởng ban đại diện đầu tiên là
thầy Đào Đức Hoàng.
Từ lần họp mặt đó đến nay,
gần 30 năm đẫ trôi qua, số hội viên
trồi sụt từ 100 đến 200 v́ có những
người ra đi v́ tuổi tác và có những
người mới đến. Tuy nhiên, v́ đây là hội
của những thầy cô giáo, những người có
nếp sống thanh bạch và v́ nghề nghiệp họ
sống đúng như một kẻ sĩ nên hội đă
không bị cuốn vào những tranh chấp và những
thị phi như một số hội đoàn khác. Hàng
năm hội tổ chức đều đặn hai
buổi họp mặt vào mùa xuân và mùa thu. Lệ phí tham
dự các buổi họp mặt đó trong thời gian
hơn hai thập kỷ qua chỉ từ 25 $ đến 35$
ngoài tiền niên liễm 15$ mỗi năm. Với số
tiền khiêm tốn đó, hội viên được
thưởng thức những món ăn ngon của các nhà
hàng nổi tiếng của thành phố Montréal như: Lotté,
Tong Por, Rouby Rouge, Cinq Épices, Phương Thảo..Trong khi
ăn uống các hội viên lại được
thưởng thức những màn văn nghệ đặc
sắc như tân nhạc với các ca sĩ “cây nhà lá
vườn” nhưng điêu luyện như Hải
Phong, Hoàng Xuân Sơn, Lê Văn Nhạc và Mai
Hương, Huỳnh Ngọc Thọ và phu nhân, Lưu
Trọng Lễ và Xuân Lan, Lê Khắc Nghị và Bùi Xuân Mai,
Ngoài ra c̣n có những màn đờn ca tài tử của
nghệ sĩ Minh Sang (đă mất), Trương Minh
Tấn và Vơ Minh Nguyệt. Cũng phải nhắc
đến tay keyboard Lê Đại Quang (em của tài tử
điện ảnh Lê Quỳnh), không bao giờ vắng
mặt trong các buổi văn nghệ họp mặt
của hội.
Về sau, hội c̣n tổ chức một
chuyến du ngoạn trong mỗi mùa hè cho hội viên và thân
hữu đi thăm viếng những danh lam, thắng
cảnh trong và ngoài tỉnh bang Québec.
Trải qua nhiều đời trưởng ban
từ thầy Đào Đức Hoàng, anh Trương
Văn Hoàng, anh Lê Ninh Hậu, anh Lưu Trọng Lễ, anh
Lê Khắc Nghi đến nay là anh Trần Hữu Quyền,
Gia đ́nh cựu giáo chức Việt Nam
tại Québec, nay đổi danh xưng là Hội giáo
chức Việt Nam tại Québec, có thể hănh diện là
một hội duy nhứt của giáo chức hải
ngoại nằm trong danh sách các hội đoàn hải
ngoại có tuổi thọ cao nhứt dù rằng hội viên
lần lượt già đi rồi..ra đi. Ở nam Cali,
tôi nghe nói có một hội cựu giáo chức Việt Nam
hải ngoại do thầy Lưu Trung Khảo làm chủ
tịch nhưng sinh hoạt không đều đặn và
nay hầu như không hoạt động ǵ nữa(?)
nhứt là sau khi thầy Khảo ra đi.
Cũng phải kể đến hai anh thư kư
lâu đời của hội: anh Nguyễn Trung Hiếu và
Trịnh Văn Dụ (Cả Ngố) đă “hy sinh” qua
nhiều nhiệm kỳ của ban đại diện
để lo cho bản tin và đặc san của hội và
đặc biệt anh Lê Ninh Hậu dù hết nhiệm
kỳ trưởng ban nhưng trong bóng tối vẫn giúp
hội đặt nhà hàng, tổ chức du ngoạn...
Hội cũng rất hănh diện có sự tham gia
của các nhà giáo kỳ cựu, bậc thầy hay đàn
anh nhiều thế hệ giáo chức ở miền Nam
trước 1975 như: thầy Phạm Hoàng Hộ,
thầy Nguyễn Văn Phú, thầy Phạm Mạnh
Cương, thầy Đào Đức Hoàng, anh Lâm Vơ
Quỳnh, anh Lê Tấn Lộc, anh Lâm Văn Bé...
Tuy không xa rời tập thể người
Việt v́ tôi vẫn thường liên lạc với
bạn bè và họp mặt với các đồng nghiệp
cũ nhưng tôi lại chọn chỗ ở cạnh
những người bản xứ v́ họ tôn trọng
sự riêng tư. Ở hai nơi tôi ở lâu dài nhứt:
góc đường Maisonneuve và Lorimier bên Montréal trong 10
năm và đường Presvost, Longueuil từ 2003
đến nay tôi may mắn có những người láng
giềng bản xứ tốt bụng.
Ở chỗ thứ nhứt tôi ở bên cạnh
gia đ́nh anh Tây tên Jacques: mẹ và em gái của Jacques bên
phải và anh là Georges bên trái. C̣n Jacques ở
tầng trên nhà Georges. Em gái của Jacques tên Dorothie
thường qua nhà tôi học cách làm chả gị với
vợ tôi. Georges thường bênh vực tôi khi có một gă
tây C̣i nào bắt nạt tôi. Jacques thôi vợ ở một
ḿnh, chuyên đi lượm đồ phế thải
để bán. Khi gặp thứ ǵ c̣n tốt Jacques đem
biếu cho tôi. Có lần y lượm được
một màn h́nh nhỏ của máy điện toán y qua nhà tôi
và nói: tôi tặng ông một cái màn h́nh baby đây. Vốn ít
học, tới mùa khai thuế Jacques phải nhờ tôi khai
giùm. Hôm mẹ của Jacques trả nhà đi về vùng quê,
bà ta ôm tôi khóc và nói bà xem tôi như con của bà. Ít lâu sau, tôi
được tin bà ấy mất, tôi hỏi Jacques nơi
nhà quàng để linh cửu của bà để
đến viếng th́ Jacques nói ông chia buồn như
vầy được rồi, không cần thiết
phải đi viếng v́ nơi đó xa lắm. Ít lâu sau,
Jacques và Georges cũng đi ở chỗ khác. Những
người láng giềng mới không thân t́nh với tôi
như gia đ́nh của Jacques.
Ở Longueuil, tôi lại may
mắn ở giữa hai gia đ́nh người tây
C̣i rất dễ mến. Người ở bên phải nhà
tôi tên Daniel là thợ điện, có vợ tên là Ghyslaine. Lúc
mới tới, tôi không biết làm sao sử dụng cái
hồ bơi nổi (piscine hors-terre) mà chủ nhà
trước để lại với nước hồ
đen ng̣m. Daniel đă kiên nhẫn chỉ tôi cách làm trong
nước hồ, bảo tŕ hồ và đóng hồ khi mùa
đông tới. Daniel có thói quen hút thuốc và uống rượu
nên bị ung thư ṿm họng. Một hôm, Daniel sang giúp tôi
căng sợi dây quần áo và nói với tôi bác sĩ nói
rằng y sẽ không sống quá 3 năm nữa. Nhưng
chỉ vài tháng sau th́ y mất, Sáu tháng sau ngày Daniel mất,
khi tôi đưa thiệp mời Ghyslaine dự đám
cưới của con gái tôi th́ bà ta hỏi tôi bà sẽ
đi dự với mọt người bạn trai
được không. Tôi trả lời là không có vấn đề
ǵ.
Ở bên trái nhà tôi là anh thợ ống
nước tên Gérald, vợ là Francine. Anh này chỉ tôi
sử dụng máy cắt cỏ vào mùa hè và
giúp tôi dựng lều che hai chiếc xe hơi của nhà tôi
vào mùa đông. Khi anh mua máy hốt tuyết th́ anh hốt luôn
tuyết bên sân nhà tôi. Sau này vợ chồng tôi và tôi về
Việt Nam chơi th́ tôi giao ch́a khóa xe và nhà cho Daniel giữ.
Mỗi ngày, Gérald lấy thơ trong hộp thơ
trước nhà mang vào bỏ bên trong để tránh kẻ
gian biết chủ nhà đi vắng. Thỉnh thoảng
Gérald đề máy xe và chạy xe vài vóng để b́nh
ắc quy khỏi bị chết. Khi con trai tôi bảo lănh
vợ và hai con nhỏ từ Việt Nam qua đây, tôi
nhờ Gérald phá hủy hồ bơi để tránh nguy
hiểm cho hai đứa cháu nội.