Từ Sài
G̣n đến Montréal, nổi trôi theo vận
nước
Hồi
kư Huỳnh Công Ân
Chương 1- Những
kư ức
nhạt
nḥa của
tuổi
thơ
Điều xa xôi nhất trong quá khứ mà tôi c̣n nhớ là trận hỏa hoạn trong chợ Cầu Cống, quận 6 (sau này là quận 4), Sài G̣n vào
năm 1948, tức là khi tôi mới có 4 tuổi. Đám cháy
xảy ra ban đêm và
v́ đa số nhà cửa lúc đó lợp bằng lá nên lửa hoành hành dữ dội. May là nhà
tôi ở trong hẻm phía bên đây của đường Matelot Manuel
(đường Tôn Đản ngày nay) nên chỉ sợ tàn lửa bay sang gây
cháy. Ba má tôi dọn
đồ đạc trong nhà ra sân
banh phía sau hăng bóng đèn Khánh Hội để tránh
lửa. Đêm
đó v́ quá sợ bóng đêm và
cảnh tượng hỗn loạn nên tôi đă khóc
to măi đến khi đám cháy
được dập tắt.
Một kư ức gần hơn của tôi là tấm lịch có h́nh một người đẹp nào đó đầu năm Tân Măo
1951 treo ở một tiệm giặt ủi gần nhà tôi. Chủ tiệm là một người miền Bắc. Vào thời buổi đó vùng chợ Cầu Cống có một số người Bắc và họ thường hành nghề thợ may, thợ giặt ủi hay thợ hớt tóc. Họ được người dân trong vùng gọi là phó may, phó giặt hay phó cạo . Ba tôi là
người miền Nam duy nhứt làm nghề may nơi
đây.
Bên cạnh nhà tôi, phía bên mặt là nhà ông họa sĩ có tên là
Chí Bửu. Trong vườn nhà ông bày la liệt các bức tranh đa số là chân dung các
thiếu nữ có cái nằm trên giá, có cái
để dưới đất dựa vách. Thời đó, kỷ thuật nhiếp ảnh c̣n phôi thai,
để phóng to
các ảnh chân dung người ta nhờ họa sĩ vẽ lớn lên. Nhờ ở cạnh nhà họa sĩ Chí Bửu nên tôi học cách kẻ ô vuông
lên ảnh để phóng to h́nh
lên.
Cạnh bên trái nhà tôi là
nhà một bà cụ người Bắc bán vài thứ linh tinh
trước cửa nhà.Con bà là ông
phó cạo có tiệm hớt tóc phía sâu bên
trong hẻm nhà tôi một chút. Ông này
thường gọi bất cứ cô gái nào
cũng là ái nữ. Vợ ông, bà phó
thường giúp đỡ má tôi khi bà bệnh hay đi sanh
các em tôi. Bà có một
đứa con gái duy nhứt thường gọi là cái Hải mà bà thường đùa sẽ gả cho thằng em thứ tư của tôi khi chúng lớn lên. Ông phó sau này
mắc bệnh điên, bỏ nhà
đi lang thang. Có người nói gặp
ông ăn xin ở bắc Mỹ Thuận. Cuối cùng ông mất tích luôn, không biết sống chết ra sao.
Phia sau nhà
tôi là nhà ông năm Bằng
. Ông này không biết
làm việc cho nhà nước Pháp hay là tay chân
của Bảy Viễn (lănh tụ B́nh Xuyên) mà
có vẻ hống hách lắm. Ông thường chửi rủa gia đ́nh tôi mỗi khi ai đó gây
tiếng động. Ba tôi là
người hiền lành và cô thế nên luôn luôn nhẫn nhục chịu đựng.
Đối diên nhà tôi là nhà
ông Tư thợ bạc, một căn nhà có bề ngang rộng bằng bốn, năm căn
nhập lại. Bữa trưa, khi ông
ngủ, đứa trẻ nào trong xóm
làm ồn th́ bị ông quát mắng dữ dội. Trẻ nít trong xóm,
ai cũng sợ ông ta. Con
ông ta là chú hai Phiến
và cháu ông ta là bác tư Cọc
th́ trái lại rất hiền lành. Gia đ́nh
ông Tư sống bằng nghề thủ công: làm trang
sức giả. Sau này khi ông ngoại tôi từ Trà Vinh lên Sài
G̣n trị bệnh lao, má tôi thuê một căn của ông Tư để ông ngoại tôi ở để tránh ông lây
nhiễm cho chúng tôi.
Đầu hẻm, phía ông Tư là
tiệm chạp phô của một gia đ́nh
người Tàu mà mọi người gọi là tiệm má con Siêu. Nơi
đây, người
ta có thể mua đủ thứ cần thiết trong nhà từ thực phẩm đến đồ dùng. Con
gái lớn là con Siêu, con
trai lớn là thằng Lẹo. Em trai của má con Siêu là chú
hai Nện, sau có gia
đ́nh mua nhà ở đầu chợ Cầu Cống.
Kế tiệm má con Siêu, ở mặt đường Matelot Manuel là
tiệm thuốc bắc cũng của người Tàu. Gia đ́nh
này vẫn c̣n sống tại đây đến ngày nay nhưng
đă chuyển nghề từ thuốc bắc sang bán bánh ḿ và
bây giờ là bán tạp hóa . Nghe
nói trong gia đ́nh này có một
người con gái tự tử v́ t́nh.
Cũng ngoài
mặt đường, hướng xuống bến đ̣, từ tiệm thuốc bắc đến cống (khu này
được gọi là xóm cây Keo), là
nhà ông bán báo cụt tay, nhà ông Hộ Lắm (có hai cô con gái
làm nữ trợ tá xă hội trong quân đội Pháp) và ông sáu Xuyến (cha của trùm du đảng : Phước đen).
Bây giờ trở lại hẻm nhà tôi, giữa tiệm má con Siêu và nhà
ông Tư là nhà bà Lào, người
Bắc bán xe bánh
ḿ trước cửa có thằng con tên Trừ và nhà bà Thầy. bà sau
này chuyên môn lên đồng
bóng.
Đầu hẻm phía bên trái, ở mặt đường là một tiêm cà phê. Nơi
đó ông chủ tiệm có một cái máy hát dĩa
mà mỗi khi ông mở cải lương hay
vọng cổ th́ lối xóm kéo tới đứng phia ngoài để nghe. Kế tiêm cà phê là mặt tiền nhà ông năm Bằng, người tôi đề cập ở trên mà hông nhà
ông giáp phía sau nhà tôi. Tiếp theo là
nhà của bác tám Tân, bộ hạ của B́nh Xuyên. Tôi
thường chơi với thằng A con của bác Tám. Có lần, tôi lấy một miếng ván nhờ thằng A cưa
dùm một cây súng gỗ để bắn pháo. Tôi măi chỉ cho nó cưa
suưt chút nữa nó cưa đứt cả ngón tay trỏ của tôi. Hôm
đó tôi sợ mất vía v́ máu ra qua
nhiều.
Trở lại trong hẻm, phía bên nhà tôi, kế tiệm giặt ủi là nhà bác tư
Nhồng, h́nh như làm
việc ở bến tàu. Nhà bác có
cái sân phía trước
được rào kỷ v́ bác có nuôi một con chó berger to
lớn. Bên cạnh nhà bác tư Nhồng là chùa Tịnh Độ Cư Sĩ
mà người ta gọi theo thứ của ông chủ là chùa Ông Ba.
Chùa có một xe cam
nhông nhỏ dùng để chở lá cây về làm thuốc phát không cho bá
tánh.
Cũng phía
bên nhà tôi đi sâu vô trong hẻm
hơn nữa có tiệm hút á phiện của ông năm Sú. Ông
này có một đứa con gái lớn tuổi hơn tôi tên là
Muối học chung với tôi ở trường Cao Văn. Nhà
ông năm Sú ở cạnh trạm y tế. Kế đó là ông
sáu Tiếu, ba của chú hai A. Nhà ông tọa lạc trên một miếng đất rộng lớn được rào kẻm chung quanh,
trong đó có một
ao thật lớn thả rất nhiều cá mà ông nuôi chúng
bằng bánh tây. Tôi
rất thích đứng ngoài rào nh́n cảnh cá trồi lên đớp bánh. Thích
hơn nữa là tôi đợi đến mùa Vu Lan, ông
sáu cúng cô hồn rất lớn, ông cho cắm cờ giấy có dán một đồng bạc quanh hàng
rào. Đứa nào đến sớm giữ một cây cờ, đợi đến khi ông cúng xong
cho giựt cờ th́ nó hưởng được cây cờ để chơi và một đồng bạc để xài. Tôi nhớ lại lúc đó mỗi ngày đi học hai buổi: buổi sáng tôi
được má cho 5 cắc, buổi chiều 3 cắc.
Từ nhà ông sáu Tiếu cách con hẻm nhỏ là nhà ông thợ hàn. Ông này có
một người em trai từng lẻn vào nhà tôi ban
đêm để ăn trộm và tôi đă trông
thấy mặt. Kế nhà ông thợ hàn là nhà thầy ba thư kư một hảng buôn có thằng con trai tên Nho,
nhỏ tuổi hơn tôi và sau
75 cũng bị bắt đi học tập cải tạo như tôi.
Trở lại phía nhà ông tư
thợ bạc, bên hông nhà ông là
một hẻm cụt rất nhỏ chỉ vứa đủ một người đi, giữa hẻm là nhà bác sáu Cải làm rờ sẹc (mật thám) cho Pháp, cuối hẻm là bác tám Lé có con
gái lớn là chị Marie, con trai
kế là thằng René mà chúng tôi
thường gọi là chị Ri và thằng Nê.
Bên kia hẻm là một gia đ́nh
người Bắc mà người chủ gia đ́nh là
lính thủy của Pháp. Năm
1956 cả nhà
đi sang Pháp, để nhà
lại cho người em tên chú hai
Nha. Kế bên là nhà ông
Sĩ, người bắc chuyên bán guốc. Lại qua một con hẻm khác lớn hơn là tiệm chạp phô của chú Hùng, người Tàu. Chú này sau bị cùi nhưng
không hiểu sao vẫn được con bảo lănh sang Mỹ. Rồi đến tiệm cà phê của ông bảy Duồn , tay chân của B́nh Xuyên. Những nhà kế tiếp là nhà thằng Voi, nhà bà bảy Huê Kỳ mà ông chồng có xe chạy đường Phú Xuân nhà của ông bảy Địa, ba của thằng Tư Ngọng, nhà của bác Một, ba thằng Vân, thằng Nam, nhà bà ba Vốn, nhà ông bảy Bành chạy xe xich lô máy...
Mồng một tết năm Quư Tỵ, 1953 một đám cháy lớn gần chợ Xóm Chiếu thiêu rụi hơn 3000
căn nhà. Hôm đó nhà tôi dọn
đồ đạc sang tỵ nạn ở sân nhà ông ba Lầu bên kia đường Matelot Manuel.
Tôi học tiểu học ở trường Cao Văn (sau
đổi thàng Công Danh) mà
ông đốc cùng quê với má tôi ở Trà Vinh. Trường này ở trên
đường Matelot Manuel gần đường Jean Eudel.
Tôi c̣n nhớ mùa hè năm
1954, tôi vừa học xong lớp nh́ để chuẩn bị niên học tới lên lớp nhứt, lần đầu tiên tôi bàn chuyện chính trị lúc 10 tuổi với đám trẻ nít trong xóm
trước cửa chùa ông Ba về hiệp định Genève khi
được biết ngày 20/7 sẽ là ngày các bên
thỏa thuận là hạn chót để kư kết.
Tháng 3
năm 1955, công an xung phong B́nh Xuyên đụng độ với quân đội quốc gia, gia đ́nh chúng tôi di
tản sang nhà cô
tôi ở bên đường Mac Mahon (sau là
đường Công Lư), Phú Nhuận.
Cũng
năm 1955, tôi thi đậu
bằng Tiểu Học. Hôm xem kết quả ở trường tiểu học Vĩnh Hội, khi thấy tên ḿnh không bị gạch đỏ, tôi mừng quá đội mưa chạy về báo tin vui cho
gia đ́nh.
Cũng nên
ghi lại một kỷ niệm: khoảng 9 hay 10 tuổi ǵ đó tôi từng bị Tây bắt, không phải v́ là thiếu nhi anh hùng tham
gia kháng Pháp mà chỉ v́
vi phạm giới nghiêm. Đêm
đó tôi lén nhà đi với
thằng bạn lối xóm tên Voi ra chỗ nhà
thương Mụ Điếc (nhà bảo sanh Đại Đức) ở mặt tiền đường Matelot Manuel
đẻ bắt dế cơm. Bất ngờ, tên biện Tây mặt đỏ núp ở hẻm Ba Ta, ngoắc vô, bắt lên xe xích
lô chở về bót quận 6 (bây giờ là quận 4). Họ để chúng tôi nằm ngủ trên sàn gạch trong văn
pḥng cho đến khi bác sáu Cải và ba tôi đến lănh về lúc nửa đêm.
Quận 4 là quận
nghèo nhất của Sài G̣n, thời đó chỉ có những nhà mặt đường lớn mới có điện. Nhà tôi
cũng như các nhà khác ở trong hẻm
phải xài đèn dầu. Lúc đó quận 4 c̣n nhiều đồng ruộng trồng lúa, c̣n khu dân
cư th́ nhiều ao, vũng. nên về đêm muỗi rất nhiều. Tôi c̣n nhớ mỗi tối tôi chơi tṛ
dùng miệng kêu u u để muỗi bu lại rồi dùng hai bàn tay đập vào nhau để giết muỗi, mỗi lần như vậy ḷng hai bàn tay tôi
đầy xác muỗi và máu
tươi.
Nhà tôi là tiệm may, mỗi năm gần tết khách đặt hàng nhiều nên phải thức đêm may cho kịp. Những đêm đó ba
tôi cho đốt đèn măng
xông để mấy chú thợ cỏ đủ ánh sáng làm việc. Đó là những lúc tôi vui nhút v́
được thức khuya chơi.
Những buôi trưa hè
được nghỉ học, tôi trốn ngủ trưa theo
các bạn đi vô ruộng phía trong chợ Cầu Cống (nay thuộc phường 14) hay phía hẻm 122 đường Tôn Đản ngày nay để bắt cào cào hay cá thia
thia. Có khi tôi đi xem phim ở rạp Nam Tiến, đường Bến Vân Đồn ngày nay, gần nhà thờ cầu Ông Lănh. Những phim tôi thích nhất lúc đó là:
Tarzan, Zorro, Superman, cao bồi...Khán
giả đa số là con nít nên mỗi lần Tarzan được con khỉ báo tin nàng
Jane lâm nạn, đu dây đi
giải cứu người yêu hay Zoro tuốt kiếm đuổi theo quân lính của tên lănh chúa hoặc anh kư giả đeo kính
cận thay bộ đồ bay có
chữ S trước ngực hay chàng
cao bồi phi ngựa nghênh chiến với mọi da đỏ th́ chúng tôi vỗ tay rần rần như để hoan hô những người hùng trên màn bạc. Những khán giả nhỏ tuôi này dễ dăi chấp nhận những khuyết điểm của rạp như rạp chỉ có một máy chiếu, một phiim có thể gồm hai hay ba cuộn phim nên hết một cuộn th́ rạp bật đèn sáng để thay cuộn kế tiếp. Hoặc rạp rất khai mùi nước tiểu, ghế có nhiều rệp. Tệ nhất là có một thằng câm chắc do chủ rạp dung túng, khi bọn trẻ chen lấn mua vé th́ nó
đánh đập, khi bọn trẻ vào rạp th́ bị nó dọa nạt đuổi không cho ngồi. Tôi cũng
là một nạn nhân của nó. Nhưng
v́ mê coi phim và mê những
thần tượng điện ảnh nên tôi đành
nhẫn nhục chịu đựng.
Lúc nhỏ, tôi kén ăn nên
thân h́nh ốm nhách. Tuy
nhiên, tôi cũng đua đ̣i chúng bạn đi đá banh ở sân cát kho 11. Nhưng
tôi đá dở quá nên thường bị bạn bè đuổi xuống giữ gôn. Tôi
c̣n trốn nhà đi tắm sông ở Bến Súc.Tắm xong, tôi ngồi phơi nắng cho tóc khô mới dám về nhà.
Sau vụ hỏa hoạn tết năm 1953, chính
quyền phóng đường biến con hẻm nhà tôi thành
đường nồi thẳng tới đường Hoàng Diệu và đặt tên là Đỗ Thành Nhơn.
Con hẻm bên chợ Cầu Cống là đường Đỗ Thành Nhơn
nối dài. Bây giờ ông Ngô
Đ́nh Diệm đă lên nắm chính quyền nên ông cho đổi tên các con
đường tên Tây sang tên Việt. Đường Matelot Manuel
thành đường
Tôn Đản, đường Jean Eudel thành
đường Tŕnh Minh Thế . Tŕnh
Minh Thế là một ông tướng Cao Đài về quy thuận với ông Diệm bị trúng đạn chết ở cầu Lăng Tô tức cầu Tân Thuận, ở cuối đường Jean Eudel.
Nhà cửa trong khu xóm tôi
được cất lại khang trang
hơn, nhưng đa số cũng
chi là vách ván, mái tôn. Nhà tôi cũng cất lại và có một cái gác gỗ. Trên đó, buổi trưa nóng
như một cái ḷ lửa. Tiệm may của ba tôi từ trước đến nay chưa có tên
nên sau khi cất lại nhà, ông cho vẽ báng hiệu lấy tên là Huỳnh Tân.
Khi hẻm nhà tôi trở thành
đường th́ một số người bán nhà đi chỗ khác và một số người mới đến. Hoa sĩ
Chí Bửu bán nhà cho một người miền Bắc làm bồi cho nhà hàng
Continental bên quận
nhứt. Có một người gốc ở Thu Đức đến thuê căn
dưới nhà làm tiệm vàng, sau này ông ta
mua lại căn nhà của bà thầy phía đối diện cất lên tiệm vàng Kim Phát. C̣n
nhà bà Lào th́ bán lại
cho má con Siêu. Nhà ông tư thợ bạc
chia nhiều căn bán cho các
tiệm vàng Hữu Tín và Kim Trang.
Nhà bà cụ bên trái nhà tôi
cho thuê căn dưới
:bác hai Hè làm tiệm
hớt tóc một bên và chú Ba sửa đồng hồ một bên. Tiệm cà phê đầu đường bán cho bà mẹ của chú tư Kim
Trang làm tiệm vàng Kim Hoa.
Mùa hè năm
1955, sau khi đậu
bằng tiểu học tôi được cha mẹ dẫn về quê nội, sinh quán của tôi: ấp Bến Đồng Sổ, quận Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một bằng tuyến xe lửa Sài G̣n Lộc Ninh. Chỉ có bằng tiểu học mà khi tôi về đến quê mọi người nh́n tôi như một ông nghè, ông cống vinh quy bái tổ . Ở Sài G̣n từ nhỏ nên ở quê có mấy ngày , tôi đă
nhớ cuộc sống đô thành vui
nhộn nên đ̣i ba má
tôi đưa về Sài
G̣n,.
Cũng
như bao đứa
trẻ khác cùng lứa tuổi, tôi cũng tham
gia nhiều tṛ chơi của tuổi thơ như bắn bi, tạt lon, đánh chỏng. Không có tiền nhưng chúng tôi
cũng đánh bài ăn nấp chai, bao thuốc. Tôi thường đi bộ ra tận cột cờ Thủ Ngữ, nơi có nhà hàng
Tour D'Argent (Ngân Đ́nh) mà thực
khách thời đó toàn là Tây
nên họ uống những loại rượu đăt tiền và hiếm nên tôi lượm được những nấp chai lạ được chúng bạn dịnh mệnh giá cao. Tôi cúng
tham gia nhiều trận xung đột giữa xóm tôi với các xóm khác . Xóm
tôi được gọi là xóm Ḥa B́nh v́
có rạp hát Ḥa B́nh của ông chín Độ. Chúng tôi thường xáp trận bắn nhau bằng dây thun với các xóm chợ Cầu Cống , xóm Cây Bàng
hay xóm Ba Ta.
Tôi c̣n nhớ, phía bên kia
đường đối diện với nhà tôi, đi về hướng chợ Xóm Chiếu gần nhà thằng hai Nhỏ, con ông thầy bói mù và tiệm hớt tóc bác Đối (đúng ra tên
bác là Đấu nhưng người bắc thường gọi tên một người theo tên đứa con trai trưởng của ông ta., trường hợp bác này người ta gọi bác theo tên con bác
là thằng Đối, một thằng bạn từ nhỏ của tôi) có một cái cổng chào ỏ đầu con hẻm mang tấm bảng Ḥa Hiệp Tự. Trong hẻm đó có một ngôi chùa, nghe nói
do ông chín Độ,
h́nh như làm cặp
rằng (đốc công) ở bến tàu, nhà ở trong chợ Cầu Cống, xây nên. Sau
này, ông cất thêm phía trước chùa một rạp hát để mỗi năm, đến mùa lễ chùa các gánh
hát bội đến hát. Những đêm chùa có
hát bội, tôi liều mạng trốn đi xem hát dù
chỉ đứng ngoài xem qua khoảng hở giữa hai người lớn. Tối về nhà gọi mở cửa th́ ba tôi cầm sẵn cây roi mở cửa ra, quất cho tôi một trận đ̣n nên thân. Về sau, thấy để rạp hát trống khi không có hội lễ chùa th́ quá
phí, ông chín Độ đặt tên Ḥa B́nh cho rạp hát và cho các
đ̣an cải lương nhỏ thuê để hát. Nếu không có đoàn
nào thuê th́ ông cho chiếu
phim bán vé. Nhưng phim ở rạp
Ḥa B́nh cũ và không hay nên tôi thích đi xem phim ở rạp Nam Tiến hơn. Ông chín
Độ có hai người con trai lớn tên Răng (Jean)
và Tṛn. Bọn con nít chúng tôi rất ngưỡng mộ hai người này, họ có vẻ công tử với cách ăn mặc chải chuốt và xài tiền hào phóng.
Trong chợ Cầu Cống có ông ba Cao
chuyên tổ chức ṣng tài xỉu nhất là vào các dịp tết.Các người có máu cờ bạc đều sạch túi v́ ṣng tài xỉu này. Có nhiều bà nội trợ đi ngang
qua đó gởi trọn số tiền chợ vô đó
để về nhà chịu cho chồng mắng mỏ. Tôi
được nghe đám tổ chức đánh bạc này gian lận bằng cách dán bằng keo một sợi chỉ nhỏ vào một trong ba hột xí ngầu, để đầu dây ló ra ngoài chén
đật hột. Khi mọi người đă đặt xong, người lắc hột nh́n hai cửa đánh xem bên
nào đặt ít, bên nào đặt nhiều đồng thời hô to:
"tay" (tức
lấy tay ra
không đặt nữa để nhà cái dở chén ra). khi đó
nếu người chơi đặt bên xỉu nhiểu th́ người lắc sẽ kéo dây để có một mặt lục hiện ra. Như vậy chỉ có 3 khả năng ra xỉu nếu hai hột thứ nhứt và thứ hai lần lượt ra 1-1, 1-2 và 2-1,
c̣n lại 33 khả năng là ra
tài. Như vậy
hầu như chắc chăn là nhà cái
sẽ lời.n Ngược lại nếu những người chơi đặt bên tài nhiều th́ người lắc sẽ kéo dây cho một mặt nhứt hiện ra. Thời đó trong toán học chưa có môn xác
xuất và phần tôi đến mười năm sau mới học môn đó trên
đại học. Nhưng nhờ chú ư lần nào ra xỉu đều có mặt nhứt và ra tài đều có mặt lục và luôn luôn cửa đặt ít tiền đều thắng, nên tôi canh me
đặt tiền vào phút chót bên
đặt ít tiền. Tôi thắng liên tiếp vài bàn th́ có
người đến bên tôi nói: "Ê
thằng nhóc, mày ăn bao
nhiêu đủ rồi, đi chỗ khác chơi nếu không tao lấy lại hết". Những Casino hay những tṛ xổ số ngày nay trên thế giới cũng vận hành theo nguyên tắc gian lận đó nhưng
tinh vi hơn nhờ sự phát triển của điện tử . Ai t́m
được kẻ hở của tṛ chơi thắng được họ th́ bị cấm cửa không cho chơi
nữa. Ai tin vào sự may rủi của tró chơi th́
máu say mê cờ bạc sẽ đưa họ đén chỗ bần cùng. Cũng
nói thêm hai chú cháu bảy
Xi và năm Cam đều
xuất thân từ ḷ ba Cao.
Cũng trong
chợ Cầu Cống có một nhân vật nổi tiếng khác là ông
năm Phương. Ông này có cái bụng to như bụng ông Địa và thường ngồi trước cửa nhà chọc ghẹo các cô gái đi
ngang nhà ông. Ai chỉ chỏ và cười nhạo cái bụng bự của ông th́ bị ông chửi mắng dữ dội.
C̣n một số nhân vật nổi tiếng ở khu này và cả quận 4 là các ông ba Lầu, sáu Tùng, bảy Duồn. Nghe nói họ là tay chân
thân tín của bảy Viễn, rất giàu có nhờ nắm những hoạt động ở bến táu. Dăy nhà lầu của họ ở mặt tiền đường Tôn Đản, gần đầu chợ Cầu Cống với tường rào chung quanh
ngạo nghễ như dinh thự của các quan lớn. Ông ba Lầu c̣n làm chủ công ty khai
quan thuế Triệu Tiết gần ngả ba Tôn Đản và Tŕnh Minh Thế.
Từ khu nhà lầu của ông ba Lầu, qua đầu hẻm Bata đến trường tiểu học Cao Văn là một dăy kho hàng có tên
là kho Bata hay kho cộng
sản v́ trước đó chính quyền Pháp dùng đẻ nhốt tù Việt Minh. Tôi c̣n
nhớ những đêm kinh hoàng
khi bọn Tây gơ cửa từng nhà trong giờ giới nghiêm để bắt hết đàn ông trong
nhà ra ngồi xếp hàng trước kho Bata. Ba
tôi và cậu tôi cũng bị dẫn đi trong nỗi sợ hăi, lo âu của má tôi và tôi. Ra
tới kho, Tây dẫn một người bị trùm bao bố từ đầu đến chân chỉ khóet hai lỗ ở hai
con mắt đến trước từng người đang ngồi chờ. Hễ người bao bố gật đầu th́ người bị nhận mặt được dẫn ngồi riêng ra. Số phận người đó đă
được định đoạt. May mắn lần nào ba tôi và cậu tôi cũng
được thả về an toàn .
Lúc nhỏ, tôi vui nhất là hôm nào
được ba má tôi dẫn anh em tôi qua chợ cũ ăn
cơm thố và đi xem
chớp bóng hoặc má tôi dẫn tôi đi xem cải lương tại rạp Nguyễn Văn Hảo, đường Trần Hưng Đạo. Má tôi thích
đi xem đoàn cải
lương Hoa Sen của
ông bầu bảy Cao với những tuồng như Đoàn
Chim Sắt, Mộng Ḥa B́nh...có xen kẽ những màn chớp bóng bắn súng đùng
đùng. Có lần
ba tôi và bác tôi dẫn
tôi đi xem đoàn Thanh Minh ở rạp Thành Xương một tuồng nào đó có cô
đào nhí Thanh Nga đóng. Cô đào Thanh Nga lớn hơn tôi hai tuổi. Gần tết, ba tôi dẫn tôi và thằng em kế tôi đi mua
giày. Bàn chân thằng
em kế tôi rất đặc biêt chiều dài th́ ngắn nhưng mu bàn
chân th́ cao nên không thử vừa đôi nào cả dù đi khắp các tiệm ở quận 4 và quận 1. Cuối cùng ba tôi phải cho em tôi đo
đặt theo ni
như giày người
lớn.
Khi tôi lên 10
tuổi th́ tôi bắt đầu đi chơi
xa, Sở Thú hay vườn Tao Đàn. Tôi
đến Sở Thú không chỉ đi xem những loài thú hoang dă
mà c̣n bẻ lén lá thuộc bài để đem về nhét trong tập, như vậy tôi học bài mau thuộc. Ở vườn Tao Đàn, tôi
đă trông thấy nghệ sĩ Trần Văn Trạch đang hát nhạc bằng tiếng Pháp cho khán giả ngồi phía dưới ṭan la ông Tây, bà
Đầm trong hội Kỵ Mă.
Một người chị bà con tôi ở Trà Vinh
được gia đ́nh gởi lên nhà tôi học mà tôi gọi là chế Khỏe. Chị học cùng lớp với tôi ở trường Cao Văn chung
với con gái của ông thầy thuốc nam Vơ Tấn Phước là Cẩm Hồng, nhà bên cạnh nhà bảo sanh Con C̣, gần ngả ba Tôn Đản và Tŕnh Minh Thế. Hồi nhỏ tôi rất nhát gái, mỗi lần Cẩm Hồng đến chơi với chế Khỏe tôi trốn lên gác. Ở trong lớp thầy Năm, ông đốc trường Cao Văn
thường phạt tôi ngồi giữa hai đứa con gái mỗi khi tôi phạm lỗi, Lúc đó, tôi ngồi im không dám nhúc
nhích. C̣n nữa, sau này cậu Tư tôi làm thầy giáo ở trường này mỗi trưa thường bắt tôi cởi quần áo để ông tắm cho tôi trước mắt các bạn học có cả con gái.
Bên ngoại tôi ở xă Phước Hưng, quận Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ông
ngoại tôi là
hương thân Định,
con của một ông cai tổng rất giàu, có nhiều ruông đất ở vùng này. Khi
ông mất đi, ông ngoại tôi c̣n nhỏ nên phần ruộng đất của ông được người anh lớn giám hộ. Ông này làm giấy tờ sang đoạt hết phần của ông ngoại tôi nhưng ông vẫn giữ được phần đất hương hỏa nên khi trưởng thành ông ngoại tôi vẫn sống sung túc. Ông bà
ngoại tôi có ba người con: má tôi, d́ ba
và cậu tư. Má
tôi hiền lành, dễ dăi c̣n di ba
tôi th́ rất cứng rắn. Các tá điền của ông ngoại tôi nói với nhau rằng nếu cô hai (má tôi)
đi thâu lúa ruông th́ họ có
thể khất lần sau được c̣n nếu cô ba (d́ ba tôi)
đi thâu th́ thiếu
một lon lúa cũng
không được. Ông
ngoại tôi gởi cậu tư tôi lên học chương
tŕnh Pháp ở trường
Nguyễn Văn Khuê, Sài
G̣n. Cậu tôi học đến bằng Thành Chung (Brevet
Élémentaire) th́ chiến
tranh Việt Pháp bùng nổ, cậu phải nghỉ học. Cùng lúc
đó ba má tôi đem tôi từ quê
nội tôi xuống Sài G̣n. Cậu tôi ở chung với gia đ́nh
tôi ở trong hẻm đường Matelot Manuel mà
không về quê v́ dưới đó không c̣n an
ninh nữa.
Có một lần lính Tây đến lục soát nhà tôi, thấy trong nhà có nhiều tiểu thuyết tiếng Pháp, chúng hỏi ai đọc những sách đó. Cậu tôi đứng ra nhận, bọn Tây hỏi sao cậu tôi biết tiếng Pháp mà không ra
làm việc với chính quyền Pháp. Không biết cậu tôi trả lời thế nào với bọn Tây mà chúng không bắt ông đi. Đẻ giúp đỡ gia đ́nh
tôi, cậu tư ra kho 5 làm
phu khuân vác, nhưng bản
chất thương
người, ông thường nhường công việc lại cho những người lớn tuổi hơn hay
người có gia đ́nh
đông con.Lần nào về tay không cậu đều bị mẹ tôi rầy rà. Về sau cậu tôi xin với ông đốc trường Cao Văn di dạy ở đó. Đến khoảng 1954, 1955 th́ có lệnh tổng động viên, cậu tôi phải nhập ngũ.
Cậu tôi đi khóa hạ sĩ quan
truyền tin, đóng quân
lần lượt ở trại kho 11, rồi trại ở đường Tôn Thất Thuyết, sau cùng về căn cứ 6 truyền tin ở G̣ Vấp. Lúc cậu tôi ở trại kho 11, mỗi lần trong trại có chiếu phim cậu tôi cho má tôi hay
đễ dẫn anh em tôi xuống coi. Có một cuốn phim vẫn c̣n ấn tượng trong tôi tới ngày nay. Đó
là cuốn phim diễn tả một đội quân Pháp hay Mỹ ǵ đó bị địch quân tàn sát hết. Họ được chôn chung ở một nghĩa địa mà đêm đêm
họ hiện h́nh lên đi diễn hành như
người sống. Tối hôm đó trên
đường về nhà, tôi nắm chặt tay má
tôi, nh́n dáo dác sợ gặp những người lính ma đó. Sau
khi giải ngũ, cậu tôi làm cho hăng IBM
của Mỹ. Năm 1975, cậu từ chối đi Mỹ theo diện nhân viên sở Mỹ mà dẫn vợ con về quê Trà Vinh
sinh sống. Ông mất năm 2011 v́
đột quỵ dọc đường khi cưỡi xe đạp từ Phước Hưng xuống Trà Cú để đi
thăm đứa cháu cố đầu tiên của ông.
Sau khi khám
phá ra ḿnh bị bệnh lao (thời đó là một bệnh nan y), ông ngoại tôi lên Sài G̣n
để chữa tri. Như
đă nói ở trên, để cách ly ông với các cháu v́ đó
là bệnh truyền nhiễm, má tôi mướn một căn nhà của ông tư thợ bạc ở đối diện để ông ngoại tôi ở để tiện dịp chăm sóc ông. T́nh
h́nh an ninh dưới
quê ngoại tôi càng ngày càng tồi tệ, d́ ba tôi đem
gia đ́nh lên thuê nhà ở hẻm 122 đường Tôn Đản. Một hôm ông ngoại tôi đẫn anh em tôi cùng con
d́ ba tôi sang nhà chị chồng d́ ba tôi ở cầu Dừa để dạy chúng tôi
bơi. Ông vác một
tấm ván lớn đem xuống sông cho chúng tôi
tập bơi. Không
may v́ vác nặng, ông trở bệnh nặng và không bao lâu
ông từ trần. Lúc đó
ông chỉ mới ngoài 50 tuổi. D́ ba tôi sau
dọn về ở đường Nguyễn Minh Chiếu, Phú Nhuận.
Bên nội tôi th́ đều ở lại quê. Chỉ có ba tôi và cô
bảy tôi ở Sài G̣n. Cô
bảy tôi có chồng làm trong ngành hỏa xa nên thay đổi chỗ ở theo nhiệm sở của dượng tôi. Má tôi đă
từng dẫn anh em tôi đi
thăm cô tôi ở ga
G̣ Vấp để anh em tôi
đi với hai thằng em cô cậu là Thu và Hùng
đi hái trái keo. Lúc đó G̣ Vấp chỉ là một vùng đồng trống có những g̣ cao. Má tôi cũng
đă dẫn chúng tôi đi
thăm cô tôi ở ga
Thủ Đức, ở đó Thu và
Hùng đẫ đưa
chúng tôi đến hồ bơi Ngọc Thủy để tắm. Ga cuối cùng dượng tôi làm xếp là ga Ḥa
Hưng ở cống Bà Xếp. Ở đó Hùng, một thanh niên đẹp trai trở thành một tay anh chị khét tiếng với biệt danh Hùng Đầu Ḅ. Sau đó
để tránh sự truy nả của cảnh sát, Hùng trốn về quê và vào rừng. Nghe nói, sau
đó Hùng bị biệt kích bắn chết ở gần quê tôi. Anh của Hùng là Thu sau này
là một sĩ quan truyền tin của VNCH, mất tích trong rừng khi vượt trại cải tạo. Đây là một bi kịch xảy ra cho nhiều gia đ́nh ở miền Nam trong cuộc chiến vừa qua: hai anh em ruột ở hai chiến tuyến khác nhau. Có
điiều đau đớn cho gia đ́nh cô
tôi là cả hai đứa con lớn mất đi đều không để lại một dấu vết ǵ.