Chương 1

Sự hiện diện của người Phàp và người Nhật ở Việt Nam.

Nửa thập niên đầu của các năm 1950, quận 6 Sài G̣n gồm hai khu Khánh Hội và Vĩnh Hội là quận nghèo nhứt của thành phố Sài G̣n.

Khu Khánh Hội nằm phía đông ven sông Sài G̣n chạy dài tới cầu Lăng Tô có con đường huyết mạch Jean Eudel. Phía bờ sông của đường này là những kho hàngmang tên những con số từ 1 đến 18, quan trọng nhứt là kho 5 nơi đi và đến của hàng hoá xuất và nhập cảng với nước ngoài, chủ yếu là với nước Pháp. Chỉ có đoạn từ góc đường Victor Olivier đến đường Matelot Manuel là có dăy phố trệt tư nhân ở. Phía đối diện của đường này trừ bót Port (bót thương khẩu) ở góc đường Quai De La Marne sát cầu Quay là một dăy nhà hàng, quán bar , nơi lui tới của lính Pháp, nhiều nhứt là thuỷ binh Pháp, chạy dài qua đường Matelot Manuel một chút. Gần cuối đường, có một trại lính truyền tin và một sân đá banh nền cát đối diện kho 11. Phía bên trong của khu Khánh Hội là bót cảnh sát và toà hành chánh quận 6(sixième bureau), cầu Mống, chợ Xóm Chiếu, chợ chồm hổm Cầu Cống, nhà thờ Xóm Chiếu…

Khu Vĩnh Hội ở phía tây nằm ven rạch Bến Nghé mà trên con đường chính Quai De La Marne có cầu Chông , cầu Ông Lănh, cầu Dừa nơi đây có hăng Phân,, hăng thuốc lá Basto, nhà thờ Cầu Ông Lănh,, cù lao Nguyễn Kiệu rồi đến kinh Tẻ mà ven bờ theo đường là kho muối và các vựa nước mắm tư nhân.

Quận 6 ngày đó c̣n những thửa ruộng trong ḷng hai khu Khánh Hôi và Vĩnh Hội.

Nhà tôi ở con hẻm của đường Matelot Manuel đối diện bên kia đường là chợ Cầu Cống. Đó là một căn nhà lá mang số 68/12. Ba tôi mở một tiêm may không có bảng hiệu, ông vừa may vừa cắt đồ cho khách.

Thời đó, dân chúng quận 6 thắp đêm bằng đền dầu, chỉ có những căn nhà trên các đường lộ mới có đèn điện không kể những cột đèn điện của nhà nước. Một đêm gần tết âm lịch thằng Voi, bạn lối xóm của tôi rủ tôi ra đường Matelot Manuel bắt dế cơm v́ dế cơm rất thích ánh sáng đèn điện. Khi chúng tôi đi đến trước nhà thương Cô Mụ Điếc (nhà bảo sanh Đại Đức) th́ một tên biện Tây (cảnh sát người Pháp) từ hẻm kho Bata bước ra ngoắc tay bảo chúng tôi theo hắn. Một chiếc xích lô đạp chờ sẵn ở đầu hẻm và tên biện Tây ra dấu cho hai đứa tôi lên ngồi trên xe. Người phu xích lô chở chúng tôi về bót quận 6 . Tại đây, chúng tôi lăn xuống nền gạch bông ngủ ngon lành quên cả sợ sệt. Th́ ra chúng tôi ra ngoài đường trong giờ giới nghiêm nên bị bắt. Đang đắm ch́m trong giấc ngủ th́ tôi cảm thấy có ai năm tay tôi lay mạnh. Mở mắt ra tôi nh́n thấy ba tôi cùng bác sáu Cải, làm rờ sẹt (recherche, lính kín cho Tây), họ đến để bảo lănh tôi và thằng Voi về.

Năm 1851, vua Thiệu Trị cho bắt và giết một số giáo sĩ Thiên Chúa người Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Quân Pháp đem chiến thuyền đánh phá Đà Nẵng rồi bỏ đi.

Đến năm 1858 liên quân Pháp và Tây Ban Nha do đô đốc Rigault De Genouilly chỉ huy đánh phá Đà Nẵng lần thứ hai rồi kéo và Nam đánh phá Gia Định. Đến năm 1961, trung tướng Charner kéo quân đánh đồn Kỳ Hoà chiếm Gia Định,. Thừa thắng Pháp chiếm luôn Biên Hoà và Định Tường. Năm 1862 quân Pháp chiếm Vĩnh Long. Triều đ́nh Huế phải kư hoà ước 1862 với thiếu tướng Bonard nhượng 3 tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia Định và Định Tường cho Pháp.

Năm 1863, triều đ́nh cử ông Phan Thanh Giản đem một phái đoàn sang Pháp để chuộc lại 3 tỉnh miền Đông nhưng thất bại và quân Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Phan Thanh Giản uống thuốc độc quyên sinh.

Năm 1872, quan quân ta có vụ rắc rối với tên lái buôn Jean Dupuis.

Năm 1873, đại uư Garnier đem quân ra Bắc vây đánh thành Hà Nội. Thành thất thủ, ông Nguyễn Tri Phương bị Pháp bắt và ông đă nhịn đói đến chết. Garnier chiếm luôn Ninh B́nh, Nam Định và Hải Dương.

Để lấy lại các tỉnh ở miên Bắc đă mất, triều đ́nh kư hoà ước 1874 cho phép người Pháp buôn bán trên sông Hồng Hà và đặt lănh sự ở các cửa biển, đặt sứ thần tại Huế, các giáo sĩ tự do giảng đạo.

Ngày 25/4/1882, sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu khước từ tối hậu thư giao nộp thành, Pháp đă tiến hành đánh chiếm thành Hà Nội. Đến 3/1883, Pháp chiếm Ḥn Gai và chiếm Nam Định lần hai ngay sau đó. Đến thời điểm này, Pháp đă chiếm hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ.

Từ ngày 18 - 20/8/1883, Pháp đánh chiếm cửa Thuận An - Huế và kết thúc bằng Hiệp ước Quư Mùi (1883).

Sau đó Pháp nhanh chóng chiếm được các tỉnh Ninh B́nh (1883), Sơn tây (1883), Phả Lại (1884), Bắc Ninh (1883), Thái Nguyên (1883), Lâm Thao (1884), Tuyên Quang (1884)

Ngày 6 tháng 6 năm 1884, ḥa ước Patenôtre được kư kết tại kinh đô Huế gồm có 19 điều khoản, chia nước Đại Nam ra làm ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ dưới ba chế độ khác nhau. Mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng như là ba nước riêng biệt. Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng triều đ́nh nhà Nguyễn trên danh nghĩa vẫn được quyền kiểm soát. Cuộc chiến chống Pháp xâm lược của người Việt hoàn toàn thất bại.

Cùng với Việt Nam, Pháp chiếm Cao Miên năm 1863 và thôn tính Lào năm 1893, từ đây Pháp chính thức áp đặt sự thống trị lên toàn bộ Đông Dương, tiến hành cuộc khai thác thuộc địa, làm giàu cho nước Pháp.

Năm 1940, Nhật Bản là một trong ba trục phát xít ( Đức,Ư, Nhật) gây ra thế chiến 1939-1945. Từ năm 1937 qua vụ Lư Cầu Kiều, Nhật Bản mở cuộc xâm chiến Trung Hoa và chiến tranh Trung Nhật bùng nổ.

Ngày 22/6/1940, Pháp bại trận, phát xít Đức lập chính phủ bù nh́n Vichy ở Pháp và các thuộc địa.

Một trong những mục đích của Nhật Bản là cắt đứt một trong những tuyến viện trợ chính của Hoa Kỳ cho Trung Quốc trong chiến tranh Trung-Nhật (1937 - 1945) qua đường cảng Hải Pḥngtuyến đường sắt Hải Pḥng - Vân Nam

Ngày 5 tháng 9 năm 1940, Nhật Bản thành lập Đông Dương phái khiển quân để đồn trú tại Đông Dương. Lực lượng này sẽ nhận được sự hỗ trợ bằng máy bay và tàu chiến của Nhật từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Tướng Nhật Takuma Nishimura được giao quyền chỉ huy quân đoàn Hoa Nam, tiến hành đàm phán với đô đốc Pháp Decoux, toàn quyền Đông Dương, để thỏa thuận triển khai quân Nhật trên lănh thổ Đông Dương thuộc Pháp. Cuộc đàm phán tiến triển quá chậm chạp nên giới tướng lănh Nhật chỉ huy quân đoàn Hoa Nam quyết định gây hấn để phá hoại quá tŕnh đàm phán. Để tránh giao tranh, ngày 21 tháng 9 năm 1940, phía Pháp đồng ư nhượng bộ, cho phép Nhật đóng 6 ngàn quân ở Bắc kỳ, được quyền sử dụng 4 sân bay, đồng thời được quyền chuyển 25 ngàn quân qua Bắc kỳ vào Vân Nam, quyền sử dụng cảng Hải Pḥng để vận chuyển một sư đoàn thuộc quân đoàn 21.

Bất chấp việc đàm phán đă ngă ngũ, lực lượng quân sự Nhật vẫn tiến hành khởi sự. 9 giờ tối ngày 22 tháng 9, sư đoàn 5 tinh nhuệ trực thuộc quân đoàn 21 Nhật tràn qua biên giới từ Long Châu vào Việt Nam qua ngả Đồng Đăng và giao tranh quyết liệt với quân Pháp tại đây. Giao tranh lan ra các đồn binh Pháp dọc biên giới. Xe bọc thép Nhật uy hiếp Lạng Sơn, buộc quân Pháp tại đây giương cờ đầu hàng. Tới lúc này các đơn vị quân thuộc địa bắt đầu hoảng loạn rút chạy, hàng trăm lính tập ră ngũ, vứt bỏ vũ khí lại trên đường chạy về Hà Nội. Cùng thời gian, máy bay thuộc hải quân Nhật cất cánh từ tàu sân bay trên vịnh Bắc Bộ bắn phá các mục tiêu Pháp trên bộ ngày 24 tháng 9. Hải quân Nhật tiến hành đổ bộ 4,500 lính bộ binh và hơn một chục xe tăng ở phía nam cảng Hải Pḥng, tiến hành tước khí giới quân Pháp tại Đồ Sơn. Tới tối ngày 26, quân Nhật đă chiếm sân bay Gia Lâm, trạm xe lửa từ biên giới Vân Nam vào Lào CaiPhủ Lạng Thương trên tuyến đường sắt từ Hà Nội-Lạng Sơn. 900 quân Nhật chiếm cảng Hải Pḥng, 600 quân khác đóng tại Hà Nội trước sự bất lực của Pháp.

16 giờ ngày 9 tháng 3 năm 1945, đại diện Nhật tới Phủ Toàn quyền Đông Dương thảo luận và chuẩn bị văn kiện về việc Pháp cung cấp gạo cho Nhật trong năm 1945. Tới 18 giờ cùng ngày, đại diện Nhật trao tối hậu thư đ̣i chính quyền Pháp phải trao toàn bộ quyền kiểm soát Đông Dương cho Nhật và Pháp phải trả lời trước 21 giờ cùng ngày. Tới 21 giờ 20 phút, Pháp chưa trả lời, Nhật tiến hành tấn công Pháp. Phía Pháp không có bất kỳ sự kháng cự nào, quân Nhật nhanh chóng chiếm được Phủ Toàn quyền Đông Dương, giam giữ Toàn quyền Đông Dương và hầu hết các quan chức cao cấp của thực dân Pháp. Đến chiều ngày 10 tháng 3, quân Pháp đầu hàng, phát xít Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Pḥng, Huế, Sài G̣n và nhiều tỉnh lỵ,… Những đơn vị quân Pháp c̣n cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ (Campuchia), một số vùng ở Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị thất thủ, chỉ c̣n một số tàn quân chạy qua biên giới Việt–Trung. Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan ră, bộ máy thống trị của thực dân Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc làm tay sai cho phát xít Nhật. Toàn bộ Đông Dương đă trở thành thuộc địa của phát xít Nhật.

Những sự kiện chính trị ở Việt Nam trong các năm đầu thập niên 1940, sau này tôi chỉ nghe qua lời kể của người lớn. Một điều độc ác nhứt mà quân phiệt Nhật đă gây ra cho dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chiếm đóng Việt Nam là họ đă bắt dân chúng miền Bắc trồng đay để dệt quân phục cho lính Nhật thay v́ trồng lúa gây ra nạn đói ở miền Bắc làm cả triệu người chết đói (nạn đói năm Ất Dậu, 1945). Ngoài ra lối trị an của lính Nhật rất tàn bạo như chặt tay người nào phạm tội ăn cắp.

Thế chiến thứ hai chấm dứt sau khi hai trái bom nguyên tử được Mỹ thả xuống hai thành phố Hỉroshima và Nagasaki của Nhật khiến Nhật Hoàng phải ra lệnh quân đội ḿnh phải đầu hàng quân Đồng Minh. Thay v́ theo xu hướng trao trả độc lập các thuộc địa cũ như Anh, Mỹ, Hoà Lan…, quân Pháp theo chân quân Anh trở lại chiếm đóng miền Nam theo kế hoạch giải giới quán đội Nhật ở Đông Dương, trong khi quân Tưởng Giới Thạch tiến vào miền Bắc.

Ngày 15/8/1945 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh th́ 2 ngày sau (17/8/1945), Việt Minh (tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam sau này) lợi dụng cuộc biểu t́nh của công chức ở Hà Nội ủng hộ chính phủ Quốc Gia do ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng cho người trà trộn vào đoàn biểu t́nh hô xen lẫn khẩu hiệu:”Hoan hô Việt Nam Độc Lập muôn năm” của mọi người với khẩu hiệu “Hoan hô Việt Minh”.

Ngày 19/8, Việt Minh tổ chức mít tinh để khích động quần chúng ủng hộ họ tại Hà Nội. Ngày 25/8/1945 Việt Minh cướp chính quyền tại Sài G̣n dưới sự lănh đạo của Trần Văn Giàu. Ngày 28/8/1945 Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được thành lậo. Ngày 2/9/1945 Hồ Chi Minh đọc bản “Truyên ngôn độc lập” tại vườn hoa Ba Đ́nh, Hà Nội.

Dù chỉ tồn tại có hơn 4 tháng (17/4/1945-25/8/1945), chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam ta. Chính phủ này đă thực hiện được những việc sau đây:

-           Lập lại quốc hiệu Việt Nam.

-         Dùng chữ Quốc ngữ và Việt hóa giáo dục.

-         Đ̣i lại trên danh nghĩa vùng Nam Kỳ để thống nhất lănh thổ.

-         Soạn hiến pháp nhấn mạnh tự do và độc lập.

Về phần hoàng đế Bảo Đại, sau ngày Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội (19/8/1945) th́ ngày 22/8/1945 một sĩ quan Nhật đến yết kiến Ngài hỏi ư kiến Ngài có muốn nhờ quân đội Nhật dẹp bọn Việt Minh không, nhà vua từ chối. Ngài nói việc nội bộ Việt Nam để người Việt tự giải quyết. Hôm sau (23/8/1945) Trần Huy Liệu đến ép vua Bảo Đại thoái vị và giao ấn, kiếm cho Việt Minh. Chế độ quân chủ ở Việt Nam nói chung và triều đại nhà Nguyễn chấm dứt vào ngày đó.

Tham vọng lập lại ách đô hộ của Pháp ở Việt Nam gây ra cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhứt giữa Việt Minh và Pháp từ 1946 đến 1954 chỉ kết thúc sau khi Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ và hiệp đinh Genève 20/7/1954 ra đời chia đôi Việt Nam theo vỹ tuyến 17. Miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và miền Nam là Quốc Gia Việt Nam sau đổi thành Việt Nam Cộng Hoà.

Thời gian tôi học bậc tiểu học (1950-1955) phần lớn giai đoạn này, người Pháp c̣n ở Việt Nam. Ba má tôi tôi cho tôi học ở trường Cao Văn trên đường Matelot Manuel, gần giáp với đường Jean Eudel, con đường rộng nhứt ở quận 6 chạy từ cầu Quay đến cầu Tân Thuận. Ông Đốc trường này là thầy Năm, cùng quê Trà Vinh với má tôi và khi ở dưới đó ông cũng là thầy dạy má tôi.

Cùng học một lớp với tôi có Vơ Thị Cẩm Hồng, con của ông Vơ Tấn Phước thầy thuốc nam có mở tiệm cùng tên thuốc trên đường Matelot Manuel gần nhà bảo sanh Lao Động thường được gọi là nhà thương Con C̣ v́ trên bảng hiệu có h́nh tượng con c̣. Tuy c̣n nhỏ nhưng Cẩm Hồmg đă nổi tiếng là hoa khôi của trường. Bọn con trai chúng tôi đứa nào cũng mơ ước được mắt xanh của nàng ngó tới nhưng tất cả chỉ là thứ t́nh yêu đơn phương v́ nàng đẹp và là con nhà giàu. Tôi là người có cơ hội gặp gỡ nàng nhiều nhứt v́ nàng là bạn thân của chị họ tôi: chế Khoẻ từ Trà Vinh lên ở nhà tôi để đi học lại cùng lớp với tôi và Cẩm Hồng nên nàng thường đến nhà tôi chơi với chế Khoẻ. Nhưng cũng giống tụi con trai khác, tôi chỉ lén nh́n đoá hoa hàm tiếu xinh đẹp đó chứ không dám đến gần v́ bản tính “nhát gái”.

Kỳ thi tiểu học năm 1955, Cẩm Hồng và tôi thi đậu, c̣n chế Khoẻ thi rớt nên trở về Trà Vinh. Tôi qua học đệ thất ở trường Nguyễn Văn Khuê bên Cầu Muối, quận nh́ c̣n Cẩm Hồng học ở đâu tôi không rơ v́ nàng không c̣n lui tới nhà tôi nữa.

Cũng như Thôi Hộ trong bài thơ Đề tích sở kiến xứ khi thấy hoa đào cười với gió đông bâng khuâng không biết người đẹp năm xưa giờ ở nơi nào..

“ Nhân diện bất tri hà xứ khứ

“ Đào hoa y cựu tiếu đông phong”

Riêng tôi , thà rằng không gặp lại nàng th́ hơn v́ ngày nay cũng như tôi nàng cũng đă đến tuổi bát tuần mà ở Việt Nam gọi là lứa tuổi U90 chắc là đă có cháu chắt đầy đàn. Cứ giữ h́nh ảnh xinh đẹp ngày xưa của nàng trong tâm tưởng của ḿnh v́:

“Mỹ nhân tự cỗ như danh tướng

“Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.

Tôi c̣n nhớ năm 1955, buổi sáng đi thi bằng tiểu học, tôi thức sớm đi ra nhà thương Con C̣ có đèn điện sáng để ôn bài v́ nhà tôi thắp đèn dầu.

Ngày xưa, học sinh đi học mỗi ngày hai buổi. Buổi sáng má tôi cho tôi 5 cắc để ăn xôi, buổi trưa 3 cắc ăn đá nhận. Hồi nhỏ tôi ham chơi hơn ham học. Tôi theo chúng bạn đi ra bến tàu lượm nấp phén, xuống sân cát kho 11 đá banh hay đi tắm sông Bến Súc. Buổi trưa ngày nghỉ học, ba tôi bắt tôi coi chừng tiệm để ông ngủ trưa, vậy mà tôi vẫn bỏ đi qua rạp Nam Tiến ở cầu Ông Lănh xem chớp bóng, đôi khi tôi theo mấy thằng bạn đi vô ruộng bắt cá thia thia.

Trong thời niên thiếu của tôi, tôi đă sống được 6 năm yên b́nh từ 1954 tới 1960. Má tôi dẫn tôi đi về thăm quê nội tôi, nơi tôi sanh ra: ấp Bến Đồng Sổ, xă lai Uyên, quận Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một bằng xe lửa tuyến Sài G̣n-Lộc Ninh. Quang cảnh miền Đông đất đỏ đă chạy dài theo chuyến hành tŕnh của tôi. Từ ngọn đồi thấp, cánh rừng dài thâm thẩm đến vườn cao su bạt ngàn và cuối cùng là một ga xép nhỏ nằm chơ vơ trên một khỏng trống giữa một bên là rừng cây cối um tùm và một bên là vườn cao su với những hàng cáy thẳng tấp không bao giờ phai nhạt trong kư ức tôi.

Nhà ông bà nội tôi ở trên quốc lộ 13, phía trước là đồn điền cao su của người Pháp, phía sau là con dốc dẫn đến nhà gia đ́nh bác ba tôi mà sau lưng là ga xe lửa Bến Đồng Sổ. Tôi không nhớ đă về nơi chôn nhau cắt rún của ḿnh bao nhiêu lần trong những năm của thập niên 1950, trước khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai bùng phát năm 1960. Tôi chỉ c̣n hồi ức lần về quê năm 1955, sau khi tôi thi đậu bằng tiểu học (certificat élémentaire). Lần đó tôi được những người trong gia tộc bên nội tôi đón mừng như một “ông nghè vinh quy bái tổ” của ngày xưa v́ cho tới lúc đó tôi là người có tŕnh độ học thức cao nhứt của họ Huỳnh v́ trước đó chỉ có ba tôi là có bằng sơ học (certficat primaire).

Khi chiến tranh trở nên khốc liệt, gia đ́nh bên nội tôi phải bỏ quê xuống ở ấp Mới gần chợ quận Bến Cát. Năm 1971 và năm 1972, lần lượt bà nội và ông nội tôi qua đời. Nhờ ở ấp Mới an ninh hơn lúc trước ở quê nên gia đ́nh tôi từ Sài G̣n lên Bến Cát để tham dự tang lễ.

Quê ngoại tôi ở xă Phước Hưng, quận Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Trong một chuyến đi buôn theo xe lửa, ông ngoại tôi dừng chân ở ga xép Bến Đồng Sổ gặp ông nội tôi và mối lương duyên giữa một người con gái ở miền tây sông nước và một người con trai ở miền đông đất đỏ h́nh thành và kết quả cuộc hôn nhân giữa hai người không quen biết là sự ra đời của tôi nơi một bên là rừng, bên kía là đồn điền cao su. Ngoài ba má tôi th́ chỉ có tôi là người sinh ở nhà quê. Vợ, các em, con, cháu tôi đều sinh ở Sài G̣n.

Tuy người Pháp đă rời Việt Nam năm 1956 nhưng ảnh hưởng của văn hoá Pháp vẫn bàng bạc trong nếp sống, suy nghĩ, việc học, việc làm của người Việt Nam nhứt là của dân Sài G̣n. Người ta vẫn mơ một ngày nào đó được đến kinh đô ánh sáng Paris, được ngắm tháp Eiffel, được đi du thuyền trên sông Seine, được dạo chơi trong vườn Luxembourg hay được nh́n ngọn đèn vàng ở ga Lyon như trong các bài thơ của Cung Trầm Tưởng. Những gia đ́nh giàu có thường gởi con vào học các trường Tây: Jean Jacques Rousseau, Marie Curie, Couvent Des Oiyseaux… Trên bậc đại học, sinh viên phải học bằng tiếng Pháp dù thầy dạy là người Pháp hay người Việt. Tuổi trẻ Việt Nam thích nghe nhạc Pháp, xem phim Pháp: các ca sĩ Christophe, Adamo, Sylvie Vartan, Francoise Hardy… và các tài tử Alain Delon, Brigitte Bardot, Catherine Deneuve… là thần tượng của thanh niên, thiếu nữ thời đó.

Thời của tôi, bậc tiểu học phải học 5 năm . Mỗi năm học gọi theo tiếng Việt lần lượt là: lớp năm, lớp tư, lớp nh́ và lớp nhứt, gọi theo tiếng Pháp là cours enfantin, cous préparatoire, cours moyen và cours supérieur.. Học hết lớp năm chúng tôi thi lấy bằng Tiểu Học. Ngay từ khi học lớp năm, chúng tôi đă được cho học tiếng Pháp. Tôi c̣n nhớ bài học tiếng Pháp đầu tiên của chúng tôi như sau:

Ma main

Voici ma main, elle a cinq doights

En voici deux, en voici trois.

Những môn học tiếng Pháp ở bậc tiểu học của chúng tôi là: vocabulaire (ngữ vựng), lecture (tập đọc), văn phạm (grammaire) và orthographe (chánh tả c̣n gọi là ám tả). Ai viết trật một lỗi chánh tả là bị thầy đánh một roi, chia động từ (cọngusaison des verbes) sai bao nhiêu ngôi là bấy nhiêu roi.

Trong kỳ thi tiểu học, bài chánh tả tiếng Pháp xem là bài thi nhiệm ư (0ptional), không tính điểm vào điểm thi .

Sau khi đậu bằng tiểu học, học sinh phải trải qua một kỳ thi tuyển vào lớp đệ thất trường công. Ai thi rớt th́ phải học lớp tiếp liên để năm sau thi lal. V́ trường công quá xa nhà tôi, nên má tôi cho tôi đi học trường tư tên Nguyễn Văn Khuê ở gần chợ cầu Muối.

Những người cùng thế hệ với tôi hay trước nữa dù không học trường Pháp nhưng cũng khá thông thạo tiếng Pháp khi nói cũng như viết.

Măi đến năm 1975, người Pháp vẫn c̣n tài sản ở Việt Nam như vườn cao su ở miền Đông Nam Phần, đồn điền trà ở Cao Nguyên Trung Phần, hăng bia Larue và bệnh viện Grall ở Sài G̣n. Sau ngày 30/4/1975 người cộng sản bất chấp luật lệ quốc tế đă xung công hết.