Cuộc triệt thoái bi thảm của
QLVNCH khỏi Cao Nguyên năm 1975
Kể từ khi
Tiểu Khu Phước Long bị các lực lượng
Cộng Sản Bắc Việt đánh chiếm hồi Tháng
Giêng, 1975, tiến tŕnh sụp đổ của chính quyền
và quân đội miền Nam Việt Nam có thể nói là
đă khởi đầu bằng cuộc triệt thoái bi
thảm khỏi Cao Nguyên của Quân Đoàn 2 Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa hồi Tháng Ba và kết thúc với
việc Sài G̣n sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ vào tay Cộng Quân vào ngày 12 Tháng Ba,
1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 dưới quyền
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vào chiều ngày 14
Tháng Ba, triệu tập các sĩ quan cao cấp để
thông báo quyết định rút bỏ Cao Nguyên do Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra.
Thiếu
Tướng Phú ra lệnh cho Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh rút
từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên Đoàn 23
Biệt Động Quân để lữ đoàn này cùng Công
Binh sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên liên
tỉnh lộ 7B mà theo kế hoạch th́ sẽ
được dùng làm con đường rút lui chính của
các lực lượng Quân Đoàn 2 tử Pleiku về Tuy
Ḥa.
Liên tỉnh
lộ 7B từ ngă ba Mỹ Thạnh tới Tuy Ḥa
trước đây là một con đường trải
đá, có ba cây cầu chính là Phú Thiện (dài 50 mét), Le Bac (dài
600 mét), và Cà Lúi (dài 40 mét). Chuẩn Tướng Phạm Duy
Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Vùng
2 Chiến Thuật, được chỉ định làm
chỉ huy trưởng tổng quát cuộc rút quân.
Diễn tiến
cuộc triệt thoái
Ngày 16 Tháng Ba,
đoàn quân xa vận chuyển vũ khí và quân dụng di
tản bắt đầu rời thị xă Pleiku. Đoàn xe
được chia ra thành bốn phần, mỗi phần
có khoảng 300 quân xa đủ loại và các xe dân sự.
Ngày đầu tiên, đoàn xe di chuyển êm xuôi v́ có yếu
tố bất ngờ. Nhưng đến ngày 17 Tháng Ba, có
thêm nhiều dân chúng lũ lượt kéo theo nên cuộc di
tản trở nên hỗn loạn và phức tạp.
Ngày 18 Tháng Ba,
trong khi Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân đang cùng
với thiết giáp mở đường đánh dẹp
các chốt của Cộng Quân th́ bị Không Quân VNCH oanh tạc
lầm, làm nhiều binh sĩ thương vong. Liên Đoàn 6
Biệt Động Quân được lệnh cho Tiểu
Đoàn 51 Biệt Động Quân tiến nhanh và
chiếm lĩnh cây cầu Phú Túc để Công Binh tiến
hành sửa chữa. Trong khi chờ đợi, Tướng
Phú ra lệnh tạm ngưng lui binh và lập pḥng tuyến
tại thị xă Hậu Bổn. Tuy nhiên quân dân tại
tỉnh Phú Bổn, bị ảnh hưởng dây chuyền,
cũng hoảng hốt gia nhập cuộc di tản.
Tối đến, các lực lượng Cộng Sản
Bắc Việt lại pháo kích vào thị xă làm cho nhiều
thường dân vô tội bị chết oan.
Cũng trong ngày
18 Tháng Ba, Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt
mở cuộc truy kích các lực lượng Quân Đoàn 2
đang rút lui, đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt
thoái ở Phú Bổn, rồi sau đó tiếp tục
tấn công xuống Củng Sơn. Nhận được
báo cáo, Tướng Phú ra lệnh cho Tướng Tất rút
bỏ Hậu Bổn để về Tuy Ḥa. Liên Đoàn 7
Biệt Động Quân được điều
động phản công cầm chân địch. Kịch
chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài tới sáng hôm
sau, lúc đó đoàn quân và dân mới tiếp tục di
chuyển được. Tuy nhiên, một đơn vị
Cộng Sản Bắc Việt khác đă tràn chiếm
quận Phú Túc ở phía Nam Hậu Bổn. Đoàn xe di
chuyển đến nhánh sông Ba phía Nam Củng Sơn th́
bị cát lún, phải chờ trực thăng chở vĩ
sắt đến cho Công Binh thực hiện việc lót
đường.
Các đơn
vị Cộng Quân từ Thuần Mẫn, Phú Bổn,
đổ xuống đă tiếp tục thiết lập
các chốt cản đường. Một tiểu đoàn
Địa Phương Quân và một tiểu đoàn
Biệt Động Quân được giao nhiệm vụ
nhổ chốt. Ngày 22 Tháng Ba, hai tiểu đoàn Biệt
Động Quân ở lại đoạn hậu đă
đánh tan một trung đoàn Cộng Sản Bắc
Việt, gây thiệt hại nặng cho đối phương.
Tuy nhiên, lúc đó, các lực lượng Cộng Sản
Bắc Việt từ Ban Mê Thuột lại được
lệnh di chuyển gấp theo tỉnh lộ 287 để
đổ xuống liên tỉnh lộ 7B mà chận cắt
đoàn xe.
Ngày 26 Tháng Ba,
đoàn xe di tản vẫn c̣n bị kẹt lại gần
Phú Thứ (trên đường từ Củng Sơn về
Tuy Ḥa) v́ có các chốt chận của Cộng Quân. Tính
đến ngày này, theo báo cáo của Bộ Tư Lệnh
Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, toàn bộ chiến xa M-48 và M-41
đều bị bỏ lại trên lộ tŕnh hoặc
bị phá hủy v́ trúng đạn pháo địch,
ngoại trừ một chi đoàn thiết vận xa M-113
chạy thoát về Tuy Ḥa.
Tướng Phú
ra lệnh cho Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm,
tư lệnh phó Quân Đoàn 2 đặc trách hành quân kiêm
tư lệnh tiền phương Quân Đoàn 2-Quân Khu 2, bay
chỉ huy lực lượng xung kích phối hợp
với các phi đội trực thăng để giải
tỏa áp lực địch. Tướng Phú cũng ra
lệnh cho Chuẩn Tướng Tất điều
động chi đoàn thiết vận xa M-113 trở
lại Phú Thứ đặng phối hợp cùng với
Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân triệt hạ các
chốt chận của Cộng Quân.
Với sự
yểm trợ của các thiết vận xa M-113, lực
lượng Biệt Động Quân đă dần dần
dọn sạch các chốt chận. Sau khi Tiểu Đoàn 34
Biệt Động Quân đă thanh toán các chốt sau cùng
tại xă Mỹ Thạnh Ṭng để khai thông con
đường di tản, đoàn xe đầu tiên của
quân và dân Quân Khu 2 đă về được tới Tuy Ḥa
vào ngày 25 Tháng Ba. Tổng kết, trong số 1,200 xe quân sự
vào lúc khởi sự cuộc di tản từ Pleiku th́ khi
đến Tuy Ḥa chỉ c̣n lại 300 chiếc mà thôi.
Liên
tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuống Tuy Ḥa. (H́nh: Tài
liệu)
Kết cục bi
thảm
Về cuộc di
tản hỗn độn và đầy chết chóc của
quân và dân Vùng 2 Chiến Thuật trên liên tỉnh lộ 7B
từ Pleiku về Tuy Ḥa, nhà văn quân đội Phan
Nhật Nam, trong bài viết nhan đề “44 Năm Sau, Nh́n
Lại Mối Đau” đăng trân nhật báo
Người Việt, kể lại: “Súng nổ… 105, 155 pháo
binh, XM72 của phía Cộng Ḥa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng
Sản, tất cả cùng ḥa vào nhau thành một luồng
hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh
nắng… Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng
xuống đoàn di tản không sai trật một viên
đạn. Lính c̣n rơ phản ứng trú ẩn, chống
cự, người dân chỉ biết đưa mắt
nh́n lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng
nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang.
Xác người tung lên theo đất bay bay…”
Theo “Cuộc Di
Tản Đầy Máu và Nước Mắt” của Mũ
Xanh Lưu Văn Phúc trên trang mạng aihuubienhoa.com, chỉ
có xấp xỉ 60,000 người dân đến đích,
trong khi hai phần ba trong số người dân di tản,
tức hơn 100,000 người, bị chết hoặc
bị thương phải bỏ lại dọc
đường. Về phía quân đội, gồm
khoảng 20,000 quân tiếp vận và yểm tợ, chỉ
c̣n 5,000 người đến nơi. Sáu tiểu đoàn
Biệt Động Quân, gồm 7,000 người, chỉ
c̣n 900 người đến tŕnh diện Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 2 ở Nha Trang. Theo
“The World Almanac of The Viet Nam War,” các kho đạn dược
và quân nhu tại Kon Tum và Pleiku đă bị bỏ ngỏ, và
tất cả quân trang, quân dụng cũng như vũ khí
trị giá khoảng $253 triệu đều lọt vào tay
Cộng Quân.
Cuộc lui binh
của Quân Đoàn 2 trên liên tỉnh lộ 7B
được coi là một cuộc lui binh bi thảm
nhất trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Liên
tỉnh lộ 7B từ đó được mệnh danh là
“Hành Lang Máu,” con đường đầy nước
mắt và xương máu của quân và dân Quân Khu 2 trong
suốt chín ngày đêm từ Pleiku xuống Tuy Ḥa.
Lịch sử
lên tiếng
Ngay sau khi
Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay Cộng Sản, vào ngày
30 Tháng Tư, 1975, nhiều người Việt Nam trong và
ngoài nước và dư luận tại nhiều nơi trên
thế giới đă cho rằng cựu Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm
trước lịch sử về việc Sài G̣n sụp
đổ, bởi v́ kế hoạch rút bỏ Cao Nguyên Trung
Phần – và sau đó là Quân Đoàn 1 tại miền Bắc
Trung Phần – của vị tổng tư lệnh Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thất bại thê
thảm.
Sau biến
cố đau thương này của đất
nước, việc giải mă các bí ẩn lịch sử
ở hai bên bờ Thái B́nh Dương dần dần cho
thấy cái thế tất yếu của lịch sử
không cho phép Việt Nam Cộng Ḥa tồn tại lâu hơn
cột mốc 1975, cho dù ông Thiệu và các tướng lănh
trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, kể cả Đại Tướng Cao Văn
Viên và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, có thành công
đưa được chủ lực quân của Quân
Đoàn 2 an toàn về Nha Trang tại Vùng 2 Chiến Thuật
hay Sài G̣n tại Vùng 3 Chiến Thuật.
Cụ thể là,
để duy tŕ một cuộc chiến tranh chống du
kích với quy mô lớn lao như hồi thập niên 1970,
chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa cần
phải có ít nhất, tức tối thiểu, là $1 tỉ
kinh viện và quân viện từ bên ngoài, trong khi kinh
viện và quân viện của Mỹ cho năm 1975 đă
bị Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm từ
mức $700 triệu xuống chỉ c̣n $300 triệu, và
rồi sẽ bị cắt đứt hẳn nếu
chiến tranh c̣n kéo dài sang năm sau.
Dẫu sao,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và luôn cả
Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cùng với
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Vùng 2
Chiến Thuật, đều đáng bị chê trách v́ đă
tổ chức một cuộc lui binh tồi tệ nhất
trong lịch sử Chiến Tranh Việt Nam.
Thật ra, các
thông tin và tài liệu có được trước và sau
Tháng Tư, 1975, cho thấy ông Thiệu và Tướng Viên
cùng với Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố
vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Thiệu,
đă từng thảo luận về một kế
hoạch “co cụm” lănh thổ – gọi là chiến
lược “nhẹ đầu, nặng đuôi” –
để Việt Nam Cộng Ḥa có thể đủ ngân
sách mà tồn tại thêm một thời gian từ ba
đến năm năm nữa. Bởi v́ chính phủ VNCH
đă “đánh hơi” thấy được chuyện
Quốc Hội Mỹ thế nào cũng cắt giảm
hoặc chấm dứt kinh viện và quân viện cho
miền Nam Việt Nam một khi quân tác chiến Mỹ và
các tù binh chiến tranh của họ đă an toàn hồi
hương sau khi Hiệp Định Paris được
kư kết hồi năm 1973.
Theo kế
hoạch dự trù này, chậm nhất là hai năm sau ngày kư
Hiệp Định Paris, chính phủ và quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa sẽ phải tự ư rút bỏ Cao
Nguyên Trung Phần và vùng duyên hải Bắc Trung Phần,
tức Quân Khu 1 và Quân Khu 2, để tập trung về
giữ phần lănh thổ c̣n lại của miền Nam
Việt Nam, tức là chỉ bao gồm các tỉnh thuộc
Vùng 3 và Vùng 4 Chiến Thuật, cụ thể là từ Qui
Nhơn hay Nha Trang tới Cà Mau mà thôi, nhằm tiết
kiệm tiền bạc và thu nhỏ phạm vi pḥng thủ
của quân đội, với hy vọng Việt Nam
Cộng Ḥa sẽ có được một cơ may nào
đó giúp ḿnh tiếp tục tồn tại, như khả
năng có tiền nhờ khai thác được dầu
hỏa ngoài Biển Đông (Biển Nam Hoa) chẳng
hạn.
Nhưng cả
Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
cứ chần chờ măi mà không cho thực hiện
chiến lược “nhẹ đầu, nặng đuôi”
nói trên, có lẽ cả hai vị vẫn c̣n chút hy vọng
rằng sẽ có những biến chuyển chính trị
thuận lợi hơn tại Mỹ khi đảng
Cộng Ḥa giành lại được quyền kiểm soát
Quốc Hội từ tay đảng Dân Chủ. Họ
thừa biết rằng đảng Cộng Ḥa có khuynh
hướng diều hâu nên không dễ ǵ chịu thua phe
Cộng Sản tại Việt Nam, và rằng Quốc
Hội Mỹ lúc đó sẽ có thể tiếp tục,
không nhiều th́ ít, tiếp tục viện trợ cho
Việt Nam Cộng Ḥa để giữ vững miền Nam
Việt Nam. Một lư do khác, có phần thầm kín hơn, là
Tổng Thống Thiệu đă bị kẹt cứng v́
lời thề “không nhường đất cho Cộng
Sản” trong chủ trương “4 Không,” vốn là quốc
sách trước và sau khi Việt Nam Cộng Ḥa đặt
bút kư vào Hiệp Định Paris 1973.
Thế rồi,
khi Cộng Sản Bắc Việt khởi sự cuộc
tấn công sau cùng để thôn tính Miền Nam Việt Nam
qua việc đánh chiếm Ban Mê Thuột (ngày 12 Tháng Ba, 1975),
Tổng Thống Thiệu và Tướng Viên mới gấp
rút thực hiện kế hoạch “co cụm” đó,
nhưng mọi sự đă quá trễ đi rồi. Hơn
nữa, các học viện quân sự lớn trên thế giới
(trong đó có cả Trường Bộ Binh Thủ
Đức và Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà
Lạt của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa)
đều cho rằng “lui binh” là một chiến thuật
hết sức khó thực hiện và rất hiếm khi thành
công nếu không có sự chuẩn bị chu đáo.
(Vann Phan)
FacebookTwitterEmailPrint