Các anh thư và hậu duệ của Việt
Nam Cộng Hoà
Lịch sử Việt Nam
đă ghi lại bên cạnh những vị anh hùng dân
tộc, chúng ta c̣n có những vị anh thư như bà
Trưng, bà Triệu, cô Bắc, cô Giang…từng cầm quân
chống lại ngoại xâm dù là thân phận quần thoa.
Trong 20 năm tồn
tại ngắn ngũi của Việt Nam Cộng Hoà, chúng
ta cũng có không thiếu ǵ những bậc anh thư và
hiện nay ở hải ngoại, cộng đồng
người Việt tỵ nạn CS của chúng ta hănh
diện khi thấy những bậc nữ lưu hậu
duệ tiếp bước các bậc anh thư đi
trước làm vẻ vang giới phụ nữ Việt
Nam.
Dưới đây xin vinh
danh những bậc nữ lưu nổi tiếng đó:
Các bậc anh thư
thời VNCH:
-Bà
cố vấn Ngô Đ́nh Nhu:

Bà Ngô Đ́nh Nhu, nhủ danh
Trần Lệ Xuân (22 tháng 8 năm 1924 – 24 tháng 4 năm 2011)
là phu nhân của ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, em trai
của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Bà Trần Lệ Xuân là con
gái thứ hai của luật sư Trần Văn
Chương và bà Thân Thị Nam Trân. Hai người sinh
được ba người con: Trần Lệ Chi, Trần
Lệ Xuân và Trần Văn Khiêm.Lúc nhỏ, bà học
trường Albert Sarraut ở Hà Nội, tốt nghiệp
tú tài Pháp. Năm 1943 bà kết hôn với Ngô Đ́nh Nhu và theo
đạo Công giáo của nh in à chồng.
Bà là dân biểu trong
Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng ḥa cùng là
chủ tịch Hội Phụ nữ Liên đới . Do
tổng thống Ngô Đ́nh Diệm không có vợ nên bà
được coi là Đệ Nhất Phu nhân(First Lady)
của Việt Nam Cộng ḥa từ năm 1955 đến
năm 1963.
Bà Ngô Đ́nh Nhu có nhiều
hoạt động trên chính trường trong thời gian
từ năm 1955 đến 1963. Với tư cách dân
biểu quốc hội, bà vận động các luật
liên quan đến hôn nhân gia đ́nh; thúc đẩy việc
thông qua các luật phản đối liên quan đến
những vấn đề như nạo thai, ngoại t́nh,
thi hoa hậu, đánh bốc... Bà cũng được cho
là ủng hộ các luật nhằm đóng cửa các nhà
chứa và ổ thuốc phiện.
Bà có khả năng diễn
đạt tốt và nhanh. Theo Mecklin, cách bà Nhu nói chuyện
như "như súng liên thanh nổ
bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.”
Robert McNamara, nguyên Bộ
trưởng Quốc pḥng Mỹ, đă nhận xét về
Trần Lệ Xuân: "Giống như hầu hết
những người Mỹ đến đất
nước này, và theo tôi, cả nhiều người
Việt nữa, tôi thấy bà Nhu là một người sáng
sủa, mạnh mẽ và xinh đẹp.”
Tháng 10 năm 1963, bà Ngô
Đ́nh Nhu cùng con gái Ngô Đ́nh Lệ Thủy đi Hoa
Kỳ và Roma với dự định giải độc
dư luận quốc tế về vấn đề Phật
giáo và vạch trần âm mưu lật đổ chánh
quyền Ngô Đinh Diệm của Tổng thống Kennedy
và CIA trước công chúng Mỹ. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 bà
Ngô Đ́nh Nhu và con gái đang trú ngụ tại khách sạn
Wilshire Hotel ở Beverly Hill, California th́ cuộc đảo
chính xảy ra, chồng và anh chồng bà bị giết.
Sau vụ hai ông Ngô Đ́nh
Nhu và Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại, khi
được hỏi có muốn xin tị nạn tại
Mỹ hay không, bà Trần Lệ Xuân đă trả lời: "Tôi không
thể cư ngụ tại một đất nước
mà chính phủ họ đă đâm sau lưng tôi. Tôi tin
rằng mọi quỷ sứ ở địa ngục
đều chống lại chúng tôi".
Từ đó bà Ngô Đ́nh Nhu không bao giờ qua Mỹ,
ngoài lần duy nhứt để trả lời phỏng
vấn của đài NBC với thù lao 10000 US để
trả chi phí cho việc học của con trai bà.
Bà qua đời lúc 2
giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 2011 tại một bệnh
viện ở Roma, Ư, thọ 87 tuổi.
Bà Ngô Đ́nh Nhu đă giúp
sức cho tổng thống Ngô Đ́nh Diệm trong 9 năm
cầm quyền về mặt trị an trong việc thành
lập tổ chức Thanh nữ Cộng Hoà để
đoàn ngũ hoá giới phụ nữ nhằm làm vô
hiệu sự xâm nhập của cộng sản vào phân
nửa số dân miền Nam này. Bà cũng đă kịch
liệt lên án các nhà sư thân cộng trong khối Phật
Giáo miền Nam lúc đó âm mưu làm suy yếu chế
độ Việt Nam Cộng Hoà.
Tiếc thay, v́ người
Mỹ muốn toàn quyền điều khiển cuộc
chiến chống cộng tại VN nên đă tổ chức
cuộc đảo chánh giết hai anh em ông Diệm và
việc này đưa đến sự sụp đổ
của miền Nam 12 năm sau.
-Đại
tá Trần Cẩm Hương

Bà
Trần Cẩm Hương (Tháng
4 năm 1926 – Tháng 2 năm 1987) là nữ sĩ quan duy
nhất của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa mang
cấp bậc Đại tá. Bà từng làm Đoàn
trưởng Đoàn Nữ Quân nhân kiêm Chỉ huy
trưởng Trung tâm Huấn luyện Nữ Quân nhân từ
năm 1965 đến năm 1975.
Bà Trần Cẩm
Hương sinh tháng 4 năm 1926 tại Cần Thơ, . Bà là trưởng nữ của kỹ
sư Trần Văn Mẹo, cựu Bộ trưởng
Bộ Công chánh dưới thời Đệ Nhất
Cộng ḥa.
Bà nhập ngũ ngày 21 tháng
8 năm 1952 với số quân 46/100101. Xuất thân từ
ngành Nữ Trợ tá Xă hội và sau tốt nghiệp Cán
sự Xă hội tại Trường Sĩ quan Nữ
Trợ tá Xă hội vào năm 1952. Ngày 5 tháng 1 năm 1965,
ngành Nữ Trợ tá được đổi tên thành
Đoàn Nữ Quân nhân và chính thức thành lập theo sắc
lệnh số 003/QT/SL, trực thuộc Bộ Tổng Tham
mưu. Cơ sở của Đoàn được
đặt ở đường Nguyễn Văn Thoại,
Sài G̣n bên cạnh là trường đào tạo nữ quân
nhân.
Trần Cẩm Hương
lúc đó đang là Thiếu tá được bổ
nhiệm làm Đoàn trưởng đầu tiên kiêm Chỉ
huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Nữ Quân nhân. Bà
giữ chức Đoàn trưởng Đoàn Nữ Quân nhân
cho đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 th́ giải ngũ v́
đáo hạn tuổi với cấp bậc Đại tá.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
bà Trần Cẩm Hương bị kẹt lại tại
Sài G̣n và phải đi học tập cải tạokéo dài
suốt 10 năm dù đă giải ngũ trước đó
rồi.
Sau khi ra trại năm 1985,
bà bị điều đi lao động ở Hậu
Nghĩa, ở một căn cḥi lá giữa đồng khô,
chịu sự quản chế của vợ một
liệt sĩ VC. Do phải lao động nặng nhọc
với điều kiện khắc nghiệt, bà đă
bị cảm nặng dẫn tới viêm màng năo. Tuy gia
đ́nh có xin chuyển đi Sài G̣n chữa trị nhưng
v́ không được cán bộ quản thúc cho phép đi
điều trị mà bà đă qua đời do bạo
bệnh vào hạ tuần tháng 2 năm 1987, hưởng
thọ 61 tuổi.
-Trung
tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn

Nữ Trung tá Nguyễn
Thị Hạnh Nhơn sinh năm 1927 tại Huế. Bà
nhập ngũ năm 1950, năm 1952 tốt nghiệp
trường Sĩ quan Nữ Trợ tá Xă hội; ngành tài chánh,
phát lương cho quân nhân ở Quân Đoàn 1. Là thiếu úy
rồi trung úy sĩ quan tiếp liệu Quân Y Viện
Nguyễn Tri Phương. Sau đó qua trung tâm huấn
luyện và trường Nữ Quân Nhân, rồi lên
đại uư làm việc tại văn pḥng đoàn Nữ
Quân Nhân của Bộ Tham Mưu.
Năm 1969, bà là thiếu tá
trưởng Pḥng Nghiên Cứu, chuyển qua Không Quân và lên
trung tá năm 1972 và là Trung tá phân đoàn trưởng Nữ
Quân Nhân quân chủng Không Quân. Bà đă cống hiến 25
năm của tuổi thanh xuân cho quân đội, để
rồi sau cùng phải sống nhiều năm trong ngục
tù CS,.
Sau Tháng Tư 1975, Cộng
Sản bắt bà đi tù và giam giữ nhiều nơi khác
nhau: Long Giao, Quang Trung, Z30D, Hàm Tân và Long Thành.
Ra tù, năm 1990 bà
định cư ở Hoa Kỳ. Sau khi cuộc sống
được ổn định, bà tham gia Hội HO
Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ
VNCH. Ban đầu, bà là phó chủ tịch hội
Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị, làm giấy
tờ bảo lănh cho các cựu quân nhân quân lực VNCH không
có thân nhân bảo lănh, sau đó làm hội trưởng HO
Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ
VNCH.
Bà đă ra đi vào Tháng
Tư đen (18 Tháng Tư 2017).
-Biệt
đội trưởng Thiên Nga: Thiếu tá cảnh sát
Nguyễn Thanh Thuỷ

Thiếu tá Nguyễn Thanh
Thuỷ sinh năm 1943 ở Mỹ Tho.
Năm 1964, bà Nguyễn Thanh
Thủy đang theo học Khoa Dược tại
Đại Học Sài G̣n phải bỏ ngang v́ sức
khỏe, sau đó theo học phân khoa Chánh Trị Kinh Doanh và
Sư Phạm, Viện Đại Học Đà Lạt. Tuy
rất tiếc không khí và môn học đă chọn tại
đây, bà phải bỏ học lần nữa v́ bị
bệnh gout chịu không nổi xứ lạnh, phải
trở về Sài G̣n bà thi vào Học viện Cảnh Sát Quốc
Gia
Bà xuất thân Khóa 1
SVSQ/HVCSQG. Khóa 1 là khóa duy nhất có khoảng 50 nữ SVSQ
vừa biên tập viên, vừa thẩm sát viên theo học.
Muốn vào Học Viện
Cảnh Sát Quốc Gia, phải qua cuộc tuyển lựa
về nhân dạng, chiều cao, gương mặt,
phải đúng tiêu chuẩn. Trong những người thi
đậu, cả 18 cô biên tập viên đều về
Khối Đặc Biệt, với điều kiện
bắt buộc là phải độc thân ít nhất hai
năm từ khi vào làm việc.
Ngày 5 tháng 8 năm 1968,
Tổng Nha Cảnh sát dựa theo sự vụ văn
thư của Bộ Nội vụ đă cho thành lập
một tổ chức mang tên Biệt đội Thiên
Nga gồm toàn nữ nhân viên trực thuộc
Khối Đặc Biệt/Bộ Tư lệnh Cảnh sát
Quốc gia, hoạt động độc lập nhưng
phối hợp với các đơn vị t́nh báo khác.[2][3]
Nhiệm vụ của đơn vị này là sưu tầm
tin tức, tổ chức xâm nhập và phá vỡ các tổ
chức hạ tầng của cơ sở Việt Cộng
hoạt động tại thủ đô Sài G̣n cũng
như tại các tỉnh lỵ địa phương trên
toàn lănh thổ Việt Nam Cộng ḥa. Do sự thay
đổi của cơ cấu Khối Đặc biệt
và để thích ứng với t́nh h́nh chính trị phực
tạp nên cuối năm 1972, Biệt đội Thiên Nga
mang ám danh mới là Đoàn Đặc nhiệm G4231g để
bảo mật hoạt động. Đơn vị này
vẫn tiếp tục hoạt động bí mật cho
tới khi Sài G̣n thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975
mới chính thức giải thể.
Biệt đội
trưởng Thiên Nga đầu tiên là Trần Thị Kim
Hạnh. Kế tiếp là Trần Thị Minh Chánh và sau cùng
là Nguyễn Thanh Thủy. Cuối năm 1972, hồ sơ lư
lịch của tất cả nhân viên Thiên Nga đă
được người Mỹ lưu trữ
dưới dạng vi phim và họ đă mang về cất
giữ tại Hoa Kỳ.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi
hay tin vị Tư lệnh và vị Trưởng Khối
Đặc biệt đă lên đường di tản,
với trách nhiệm bảo mật tuyệt đối cho
các công tác và giúp cho sự an toàn tính mạng của các thành
viên Thiên Nga, Biệt đội trưởng Thiên Nga
Nguyễn Thanh Thủy đă tới Bộ Tư lệnh
Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng ḥa, thu gom toàn
bộ hồ sơ liên can đến Biệt đội
Thiên Nga và đốt sạch các hồ sơ này thành tro tàn
Trong thời gian hoạt
động, bà Nguyễn Thanh Thuỷ được ân
thưởng những huy chương:
Đệ Tam Đẳng
Chiến Công Bội Tinh, Đệ Nhị Đẳng Danh
Dự Bội Tinh.
Bà đă trải qua 13
năm tù ở chung với những thành phần gồm tù
chính trị, tù phản động, tù bị t́nh nghi làm gián điệp
bị nhốt trong mật khu trước 1975. Nỗi
khổ nào ai biết cho nữ tù cải tạo Án Sầm,
trại cải tạo Long Thành hai lần, trại Z30D hai
lần, trại Thủ Đức một lần, nhất
là trại giam X4 của Bộ Công An một lần.
Những ngày tháng tù với các bạn tù đă giúp đỡ
bà và các nữ tù qua những cơn đau bệnh ngặt
nghèo trong hoàn cảnh thiếu thốn đủ thứ.
Bà được thả
về ngày 13 Tháng Hai, 1988 và định cư ở Mỹ
theo diện HO.
Ở Hoa Kỳ bà đă tham
gia hoạt động trong các hội đoàn người
Việt Quốc Gia, đặc biệt bà giữ chức
vụ Hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ
Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH (nhiệm
kỳ 2018-2020). Bà cũng đă xuất bản hai cuốn
hồi kư: Biệt Đội Thiên Nga (2018) và Đời tù
một Thiên Nga (2023).
Các nữ anh thư hậu
duệ
Sau ngày 30/4/1975, trong cảnh
tan đàn, xẻ nghé, nhiều triệu công dân nước
Việt Nam Cộng Hoà rời bỏ đất
nước, phân tán trên khắp quả địa cầu.
Tuy vậy, họ vẫn mang trong ḷng nỗi nhớ quê
hương và mong có ngày quang phục. Những anh thư
của Việt Nam Cộng Hoà ngày xưa lần lượt
ra đi theo thời gian nhưng thế hệ tiếp theo
đă có những anh thư làm vẻ vang phụ nữ
Việt Nam trên quê hương thứ hai. Dưới đây
là những tên tuổi được mọi người
nhắc tới
-Nữ
khoa học gia Dương Nguyệt Ánh

Dương
Nguyệt Ánh sinh năm 1960 tại
Sài G̣n, có họ hàng và gia đ́nh từ miền Bắc. Ông
nội của cô là nhà thơ và quan chức nổi tiếng
ḍng dơi cụ nghè Vân Đ́nh Dương Khuê, quê ở làng Vân
Đ́nh, huyện Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông (ngày nay là xă
Ứng Ḥa thuộc thủ đô Hà Nội). Ngoài ra bà c̣n có
một số họ hàng như quan Dương Thiệu
Tường (vị tiến sĩ đầu tiên của
khoa thi An Nam), bà cùng vai vế với nhạc sĩ
Dương Thiệu Tước và giáo sư Dương
Thiệu Tống, trong khi nhiều người dựa vào
tuổi tác cho rằng bà gọi 2 người là bác. Trong gia
phả họ Dương, mỗi đời con cháu
đều dùng thống nhất một chữ lót khi
đặt tên, bên nhánh nam th́ lần lượt là Tự, Thiệu, Hồng,
Nghiệp, Vi,... và nhánh nữ lần
lượt là Hạ,
Nguyệt, Vân, Thúy,....
Dương Nguyệt Ánh
rời Việt Nam năm 1975 cùng với gia đ́nh bằng
trực thăng, trong làn sóng người Việt tỵ
nạn Cộng sản sau khi chính thể Việt Nam
Cộng Ḥa sụp đổ vào cuối tháng tư và
đến được Philippines. Sau một thời gian
ở trại tạm cư ở Pennsylvania, Hoa Kỳ, gia
đ́nh được định cư ở vùng Washington,
DC.
Dương Nguyệt Ánh
tốt nghiệp Đại học Maryland ngành kỹ sư
hóa học, khoa học điện toán và quốc gia hành chính
rồi được tuyển vào làm việc tại Trung
tâm Nghiên cứu của Hải Quân Maryland.
Trong Bộ Hải quân Hoa
Kỳ Dương Nguyệt Ánh nhậm chức Giám
đốc Khoa học và Kỹ thuật (Director of Science and
Technolgy) của chi nhánh Indian Head Division thuộc Trung tâm
Vũ khí Hải quân Hoa Kỳ(Naval Surface Warfare Center) tại Maryland, tiểu
ban chất nổ với nhiều giải thưởng. Bà
từng là người đại diện cho Hoa Kỳ trong
lănh vực chất nổ tại Liên minh Pḥng thủ
Bắc Đại Tây Dương(NATO). Bà cũng là tác
giả của bom áp thấp nhiệt đới. Do đó bà
được mệnh danh là “Bomb Lady”.
Năm 2005, bà
được cử về Bộ Quốc pḥng Mỹ làm
cố vấn khoa học cho phó Đề Đốc
Hải Quân Hoa Kỳ về thông tin và chiến thuật
tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2008 bà
được bổ nhiệm làm Giám đốc An ninh Biên
giới và Lănh hải (Director of the Borders and Maritime Security
division) thuộc nha Khoa học và Kỹ thuật (Science and
Technology Directorate) của Bộ Nội an Hoa Kỳ
(Department of Homeland Security).
-Ca
nhạc sĩ Nguyệt Ánh

Ca nhạc sĩ Nguyệt
Ánh (tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ánh) là con
của đại tá Nguyễn Văn Y, tổng giám
đốc cảnh sát quốc gia thời đệ nhứt
VNCH di tản sang Mỹ năm 1975. Bà tham gia tích cực vào
các hoạt động xă hội và phong trào đấu tranh
cho tự do, dân chủ tại Việt Nam. Bà c̣n
được biết đến là tác giả của
nhiều ca khúc đấu tranh.
· Năm 1975, bà cùng gia đ́nh di tản sang
Mỹ và định cư tại tiểu bang Virginia.
· Cùng với cố nhạc sĩ Việt
Dzũng và những người khác, bà thành lập phong trào
Hưng Ca và tích cực tham gia các hoạt động xă
hội, tranh đấu cho tự do dân chủ trong nhiều
thập niên.
· Bà là tác giả của nhiều ca khúc có
nội dung đấu tranh như:
o
Anh Vẫn Mơ Một Ngày
Về (Em Vẫn Mơ Một Ngày Về)
o
Cái C̣
o
Bài Ca Hội Ngộ
o
Bài Ca Nhân Bản
o
Bài Hát Chống Xâm Lăng
· Nguyệt Ánh và cố nhạc sĩ , MC
Việt Dzũng là một cặp song ca nổi tiếng
với những bản nhạc tranh đấu tŕnh
diễn ở khắp nơi trên đất Mỹ và trên thế
giới.
-Phó
đề đốc Vũ Thế Thuỳ Anh

Cha cô là cựu Đại uư Hải quân VNCH Vũ Thế
Hiệp. Thùy Anh ra đời đúng vào năm Mậu Thân
1968, giữa cơn lửa bỏng của chiến tranh.
Năm 1975,
khi mới lên 7, cô cùng gia đ́nh sang Mỹ tị
nạn cộng sản.
Thùy Anh theo học ngành Dược tại đại
học University of Maryland. Ra trường năm 1994, cô làm
việc cho đại học Johns Hopkins University một
thời gian. Là chị cả, cô có ba người em trai
đều ra trường làm Bác Sĩ: Vũ Thế Duy Anh
(BS Quang tuyến); Vũ Thế Tuấn Anh (BS Cấp
cứu); Vũ Thế Quốc Anh (BS Nhăn khoa). Nhưng
chỉ mỗi ḿnh cô, Vũ Thế Thùy Anh, là người
duy nhất theo chân Bố chọn đường binh
nghiệp.
Năm 2003, Dược sĩ Vũ Thế Thùy Anh gia
nhập U.S. Public Health Service (PHS) Commissioned Corps và trở
thành một sĩ quan y tế trong binh chủng Hải Quân.
PHS tuy ngày nay là một bộ phận của Bộ Y Tế
(Department of Health and Human Services) nhưng nó được
tổ chức giống như quân đội v́ nguồn
gốc là các bệnh viện của Hải Quân Mỹ
từ cuối thế kỷ 18 do Tổng thống John Adams
khởi xướng.
Tiền thân của PHS ra đời năm 1798,
đến năm 1889 nó được quân đội hoá
với một chuỗi các bệnh viện Hải Quân
đặt tại các thành phố cảng quan trọng
như Boston, Charleston, New Orleans… để kiểm soát
dịch bệnh thâm nhập vào nước Mỹ. Thành viên
của PHS là những nhà chuyên môn trong các ngành y tế như
bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá v.v… Họ
được huấn luyện để trở thành
sĩ quan (commissioned officers)
phục vụ cho cộng đồng khi có thiên
tai băo lụt hay bệnh tật v.v…
PHS có nhiệm vụ cách ly và kiểm soát bệnh
truyền nhiễm trước khi nó bùng nổ và phát tán ra
khắp cả nước. PHS đă đóng một vai tṛ
quan trọng trong trận đại dịch Spanish Flu
thời Đệ Nhất Thế Chiến (1918). Hiện nay PHS
đang làm việc cùng các cơ quan liên đới như CDC
(Centers for Disease Control) để đối phó cơn
dịch COVID-19.
Sau 12 năm phục vụ trong PHS, cô Vũ Thế
Thùy Anh được lên lon Đại Tá vào năm 2015. Đến
tháng Sáu năm 2019 cô được thăng cấp Rear
Admiral
-Chuẩn
tướng Danielle Ngô

Bà đến Hoa Kỳ cùng
gia đ́nh với tư cách là người tị nạn vào
cuối Chiến tranh Việt Nam năm 1975, khi mới 3
tuổi. Bà gia nhập Lục quân năm 1989 và được
phong quân hàm sĩ quan sau khi tốt nghiệp
Chuẩn tướng Danielle
Ngô tốt nghiệp cử nhân ngành tài chánh tại
đại học Massachusetts. Cô cũng đă hoàn tất 2
văn bằng cao hoc tại trường chỉ huy và tham
mưu (Command and General Staff College) và đại học
Georgetowns. Ngoài ra, cô cũng đă thụ huấn các khóa
học quân sự như: khóa căn bản và cao cấp
sĩ quan công binh; khóa CAS3 tại trường chỉ huy
tham mưu và trường cao cấp quân sự (School for
Advanced Military Studied).
Bà đă phục vụ trong
nhiều vai tṛ lănh đạo và chỉ huy, bao gồm
chỉ huy Lữ đoàn Công binh 130 (130th Engineer Brigade) và làm
Tham mưu trưởng (Executive Officer) cho Tổng thanh tra
Lục quân Hoa Kỳ tại Ngũ Giác Đài.
Hơn 29 năm phục
vụ trong lục quân Hoa Kỳ, đại tá Danielle Ngô
được ân thưởng nhiều loại huy
chương cao quư như: Legion of Merit, Bronze Star Medal (2),
Defense Meritorious Service Medal, Meritorious Service Medal, Joint Service
Commendation Medal, Army Commendation Medal (3), Joint Service Achievement
Medal (3), Army Achievement Medal (5), Joint Meritorious Unit Award (2),
Valorous Unit Award, Army Superior Unit Award (3), Army Reserve Component
Achievement Medal, National Defense Service Medal (2)… và một số
huy chương cao quư khác.
-Trung
tá Elizabeth Phạm

Elizabeth Phạm sinh năm
1978, cô tốt nghiệp đại học University of San
Diego. Sau đó cô thụ huấn tại trường sĩ
quan TQLC, và được tuyển chọn thụ huấn
ngành phi công TQLC trở thành phi công chiến đấu cơ
F-18. Cô đă từng phục vụ trong các phi đoàn
chiến đấu cơ F-18 của không quân TQLC vùng Thái
B́nh Dương. Từ năm 2006 đến năm 2008, cô
đă bay 130 phi vụ yểm trợ tiếp cận,
yểm trợ cho các đơn vị bộ chiến TQLC
tại chiến trường Trung Đông, đặc
biệt là tại Iraq. Sau đó cô được thuyên
chuyển về phục vụ tại bộ quốc pḥng
trong vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Các nhiệm
sở tiếp theo, cô phục vụ trong một phi đoàn
chiến đấu cơ F-18 TQLC tại Nhật Bản, và
đơn vị không quân TQLC tại căn cứ Camp
Pendleton, San Diego.
Từ năm 2022-2023, Trung
tá Elizabeth Phạm tu nghiệp tại trường
đại học hải chiến hải quân Hoa Kỳ (
United States Naval War College ), niên khoá 2022-2023.
Trung tá Elizabeth Phạm
được thăng cấp thiếu tá năm 2011, trung
tá năm 2019. Trong suốt thời gian phục vụ TQLC, cô
được ân thưởng nhiều loại huy
chương cao quư của TQLC và hải quân Hoa Kỳ. Tháng 6
năm 2023, cô thắng giải thưởng danh dự nghiên
cứu AFCEA về đề tài: “Khám phá hệ thống
vũ khí an ninh mạng xă hội: Pḥng thủ chống
lại ‘Vũ khí thuyết phục đại chúng'” của
Trung Quốc”, từ giải thưởng học thuật
cho niên khoá 2022–2023 của đại học hải
chiến hải quân Hoa Kỳ ( United States Naval War College ).
Lời
kết: Ở Việt Nam,
để ru ngũ giới nữ lưu quên đi việc
tiến thân trong các lănh vực kinh tế, chánh trị,
kỹ thuật, giáo dục, quân sự…để sánh vai cùng
nam giới, các phương tiện truyển thông nhà
nước ngày ngày phổ biến những bản tin
về những ca sĩ, diễn viên, người mẫu…
với những chi tiết cá nhân về các mối t́nh, các
tài sản: nhà, xe, trang sức…và dĩ nhiẻn về nhan
sắc. Ảnh hưởng trên các cô gái Việt Nam: sửa
sắc đẹp (thẩm mỹ viện ở Việt Nam
mọc lên như nấm), ăn mặc hở hang, khêu
gợi để được lọt vào mắt một
“đại gia” rồi những thứ ḿnh muốn sẽ
có được.
Nhưng trong xă hội
Việt Nam Cộng Hoà ngày trước và trong cộng
đồng người Việt hải ngoại ngày nay,
người phụ nữ Việt Nam vẫn hănh diện
ḿnh là con cháu bà Trưng, bà Triệu v́ trong hàng ngũ của
họ đầy rẩy những bậc anh thư.
Huỳnh
Công Ân
15/11/2025
Tài liệu trích dẫn từ các
nguồn:
-Wikipedia tiếng Việt
-Người Việt online
-Việt Báo
-Ḍng song cũ
-Nghĩa Thục