50 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA
MIỀN NAM TỰ DO VÀ TÔi
Tối
ngày 11 tháng 3 năm 1975, sau khi đi dạy ở một
trường tư về nhà, ăn cơm xong tôi lên
giường nằm đọc báo, một thói quen
trước khi ngủ. Tôi giựt ḿnh khi thấy một
tin chạy tít lớn ở trang nhất: “Tiểu
khu Darlac (Ban Mê Thuột) bị thất thủ”. Hai tháng
trước, chúng ta đă mất tỉnh Phước Long
nhưng tôi nghĩ rằng rồi đây quân ta sẽ tái
chiếm được hai tỉnh này, như năm 1968 tái
chiếm Huế và 1972 tái chiếm Quảng Trị.
Từ
ngày 12/3/1975 đến ngày 17/3/1975 trung đoàn 53 của
sư đoàn 23 tại phi trường Phụng Dực
cầm cự với quân Bắc Việt với hy vọng
giữ được đầu cầu đổ quân
tiếp viện để tái chiếm thị xă Ban Mê
Thuột. Nhưng cuối cùng, với quân số đông
hơn gấp 10 lần, cộng quân tràn ngập phi
trường và trung đoàn 53 bị xoá sổ, chỉ có vài
chục binh sĩ thoát khỏi ṿng vây.
Tướng Phạm
Văn Phú
Cùng ngày
17/3/1975, lệnh rút bỏ Pleiku của tổng thống
Thiệu được tướng Phạm Văn Phú thi
hành:. 4000 quân xa theo
tỉnh lộ 7B tiến về hướng Phú Bổn.
Trong lúc
đó, 5000 quân dân trốn khỏi Ban Mê Thuột đi
về phía Phước An, Khánh Dương. Sư đoàn F10
Bắc Việt từ Ban Mê Thuột kéo xuống
hướng Nha Trang để truy đuổi quân dân ta.
Ngày
18/3/1975 đoàn quân tới Hậu Bổn (Cheo Reo), quân
Bắc Việt đuổi theo tấn
công, đoàn lui binh kéo tàn quân về Tuy Hoà ngày 26/3/1975 chỉ
c̣n 300 quân xa.
Ngày 15/3/1975
lữ đoàn 3 nhảy dù được lệnh rút từ
Đại Lộc, Quảng Nam đi bằng tàu về Nha
Trang, tiến lên pḥng thủ Khánh Dương ngày 21/3/1975.
Trước một lực lượng đông đảo
địch quân: sư đoàn F10 và sư đoàn 320 Bắc
Việt, sau hơn 10 ngày giao tranh ác liệt, ngày 1/4/1975 liên
đoàn 3 nhảy dù phải triệt thoái về Phan Rang.
Ở
quân khu 1, Bắc Việt có ưu thế hơn ta về và
vũ khí đạn dược, lực lượng coi
như gấp hai rưỡi ta..
Tướng Ngô Quang
Trưởng
Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, Việt
Cộng tại Quân khu 1 cũng xâm nhập đánh phá các
nơi để cầm chân ta như tại Quảng
Trị địch chiếm quận Hải Lăng bắc
Thừa Thiên, xâm nhập các xă ven biển Thừa Thiên, phía
nam đánh các cao điểm của sư đoàn 1, tấn
công tuyến sông Bồ nhưng bị đẩy lui bỏ
lại 200 xác chết, tại Quảng Tín Việt Cộng
chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu Đức ngày
10-3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…
Ngày 11-3 Tổng
thống Thiệu Triệu tập phiên họp tại Dinh
Độc Lập cho biết trước t́nh h́nh h́nh khó
khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực
địch mạnh, ta chỉ có thể giữ
được Quân khu 3, Quân 4 và một vài tỉnh duyên
hải vùng 2, vùng Một chỉ
giữ Huế và Đà Nẵng. Trong lúc t́nh h́nh quân sự có vẻ
không thuận lợi cho ta th́ theo yêu cầu của của
Ông Thiệu, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho
Tướng Trưởng trả sư đoàn Nhẩy Dù
về Trung ương. Ngày 13-3 Tổng Thống Thiệu
lệnh cho Tướng Trưởng về Sài G̣n họp
Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm
Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng
Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết
t́nh h́nh khó khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin
Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công
miền Nam nên phải tái phối trí lực lượng,
rút quân bỏ những miền rừng núi đễ giữ
những vùng mầu mỡ c̣n hơn đứng chung chính
phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.
Ngày 14-3 Tướng Trưởng về Quân đoàn 1
họp tham mưu, thảo luận kế hoạch tái
phối trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài G̣n, hôm sau liên
đoàn 14 Biệt động quân nhận vùng trách nhiệm
của Lữ đoàn Thủy quân lục chiến 369
tại Quảng Trị để lữ đoàn này về
Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù, một lữ đoàn TQLC
sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để
bảo vệ Huế.
Ngày 17-3 Lữ đoàn 258 TQLC
sẽ rời Quảng Trị để về Đà
Nẵng thay lữ đoàn Dù. Dân chúng sợ hăi đă
di tản ồ ạt trên quốc lộ 1 từ mấy
ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối
trí.
Ngày 18-3 Thủ tướng
Khiêm ra Đà Nẵng để giải quyết vấn
đề dân tỵ nạn, ông cho Tướng
Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu 1 v́
t́nh h́nh Quân khu 3 nghiêm trọng, Việt Cộng đánh
Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long Khánh, B́nh Tuy..
Ngày
19-3 Tướng Trưởng được triệu về
Sài G̣n họp lần thứ hai, thành phần phiên họp
cũng như lần trước nhưng có thêm Phó tổng
thống Trần Văn Hương. Tướng
Trưởng tŕnh bầy hai kế hoạch lui
binh:
Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ
theo Quốc Lộ Một từ Huế Chu lai về Đà
Nẵng, trong trường hợp Quốc lộ Một
bị cắt th́ sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế
hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ
tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà
Nẵng và Chu Lai, tàu hải quân sẽ chuyên chở lính
từ Huế Chu Lai về Đà nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng
vẫn là điểm tựa cuối cùng, Trưởng
đề nghị giữ cả ba cứ điểm
để phân tán lực lượng địch và gây
tổn thất tối đa cho Việt Cộng, Thiệu
cho biết giữ được bao nhiêu hay bấy
nhiêu.
Ông Cao Văn Viên cho rằng kế hoạch
của Tướng Trưởng là hợp lư.
“Kế
hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất
hợp lư và đầy đủ, gồm kế hoạch
dự pḥng để đối phó với những bất
ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai
diễn như Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn
vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà
Nẵng, chúng
ta chỉ c̣n hai hành động phải làm: Cố thủ
tại chỗ hoặc rút bằng đường biển
nếu t́nh thế bắt buộc. Như vậy vào
thời điểm trên, đâu c̣n cần đến kế
hoạch dự pḥng nào khác”
Thật ra kế hoạch
nghe th́ hay nhưng thực hiện được không
phải là chuyện dễ. Tướng Thiệu lệnh
cho Trưởng cố gắng giữ được
tất cả những phần đất có trong tay sau
đó ông lệnh cho Tướng Quang soạn bài hiệu triệu
trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng,
quyết bảo vệ Huế đến cùng. Buổi
họp này không thấy nói đến triệt thoái mà
chỉ là kế hoạch co cụm để giữ
đất.
Ngày 19-3
Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết giáp, liên
đoàn 14 Biệt động quân rút về bên này Mỹ
Chánh lập pḥng tuyến mới. Cộng quân bắt
đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo Tướng
Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa
phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim
Điền khuyên không nên đổ máu vô ích v́ các siêu
cường đă sắp đặt cả rồi.
Sáng 20-3
Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy tiền
phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch
pḥng thủ Huế như Tổng thống ra lệnh
phải giữ bằng mọi giá. T́nh h́nh mặt trận
tương đối chưa đến nỗi tệ, các
đơn vị c̣n hoàn hảo, tinh thần cao duy tŕ
được kỷ luật, ai nấy đồng ḷng tử
thủ, dân chúng di tản nhiều. Tưởng
Trưởng lạc quan khi thấy Huế pḥng thủ
tốt. Trưa hôm đó Thiệu đọc hiệu
triệu dân trên đài phát thanh Huế. Đến chiều
khi về tới Đà Nẵng Tướng Trưởng
nhận được lệnh của của dinh
Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu
t́nh h́nh bó buộc, Tướng Thiệu lư luận Quân
đoàn không đủ lính để bảo vệ cả ba
cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng.
Tướng Trưởng được quyền tuỳ
cơ ứng biến.
Quân khu
1 ngày một nguy ngập, Cộng quân đă bắt
đấu tấn công mạnh, chúng đánh theo thế
gọng ḱm từ trên Quảng Trị đánh xuống và
từ dưới Quảng Ngăi đánh lên, dân chúng chạy
loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng,
từ Quảng Nam Quảng Ngăi kéo lên. Ngày 21-3 Việt
cộng tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên
Quốc lộ Một, dân tản cư đông như
kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư
đoàn 1 VNCH có pháo binh và không quân yểm trợ đẩy
lui cuộc tấn công của Việt Cộng nhưng
địch có ưu thế về lực lượng nên
sư đoàn 1 cầm cự đến trưa ngày 22 th́
thất thủ, trung đoàn 1, liên đoàn 15 Biệt
động quân bị đẩy lui, một khúc
đường Quốc lộ Một bị cô lập,
trung đoàn 1 thuộc sư đoàn 1 bị thiệt
hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu
gọn tuyến pḥng thủ Huế.
Dân chúng
và quân cụ bắt đầu được chở
bằng tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23 -3 Việt
Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt
hại ǵ nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng
náo động như hỗn loạn. Tại phía nam vùng
Một quận Hậu Đức, Tiên Phước
thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, sư
đoàn 2 và liên đoàn 12 Biệt động quân chặn
được áp lực địch tấn công về Tam
Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn
dập của Việt Cộng Tướng Trưởng ra
lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng
Quảng Ngăi,
những tiền đồn xa tiếp tế cũng
được di tản, Tướng Trưởng cho gom
các lực lượïng rời rạc lại để
bảo vệ những điểm trọng yếu vào
trận cuối cùng. Sự chỉnh đốn của
Tướng Trưởng đem lại chút yên gượng
gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngăi và Quảng Tín trong 2 ngày.
Lực
lượng pḥng thủ của ta ngày một yếu
trước áp lực địch., ngày 24-3 tại phía nam
Quân khu 1, Việt Cộng tấn công mạnh tại
Quảng Tín , sư đoàn 711, trung đoàn 52 và xe tăng
đánh Tam Kỳ, đặc công đột nhập
tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến
trưa th́ Tam Kỳ thất thủ. Trung đoàn 2 thuộc
sư đoàn 3 từ Quảng Nam được lệnh
tiến về Quảng Tín để giúp địa
phương quân chạy về từ Tam Kỳ về… Tam Kỳ mất, dân ùn ùn chạy về Đà
Nẵng. Tại Quảng Ngăi Cộng quân tấn công gấp
rút dữ dội, đặc công và địa phương
quân Việt Cộng tại Quảng Ngăi tấn công phi
trường, các cơ sở hành chánh quân sự Quảng
Ngăi, đường Quốc lộ Một từ Quảng
Ngăi tới Chu lai bị cắt đứt, đường
ra biển bị cô lập, chỉ trong một ngày t́nh h́nh
Quân khu 1 rối loạn đến mức không c̣n kiểm
soát được nữa. Quân đoàn
chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngăi mở
đường máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài
đơn vị về được.
Ngày 25-3 tất
cả các đơn vị quân đoàn 1 tụ lại 3 pḥng
tuyến chính: Nam Chu Lai, Đà Nẵng và Bắc Huế, các
lực lượng của Quân đoàn bị thiệt
hại nhiều khi di tản về các pḥng tuyến này, tinh
thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản
chưa bao giờ trong đời chinh chiến họ
thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong t́nh
thế khó khăn Trưởng lại nhận thêm một
lệnh nữa từ dinh Độc Lập, Tướng
Thiệu lệnh cho Trưởng dùng ba sư đoàn cơ
hữu của Quân đoàn 1, 2, 3 để pḥng thủ Đà Nẵng, sư đoàn TQLC
đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng
Trưởng cho sư đoàn 1 và các đơn vị quanh
Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho sư đoàn
2 chi khu Quảng Ngăi và thân nhân của
họ ra Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón sư
đoàn 2 tại Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc
vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn
nhưng một nửa quân số của sư đoàn 2
đă lên tầu đưa về B́nh Tuy, chính phủ tuyên
bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25-3.
Các
lực lượng Huế bắt đầu di tản,
sư đoàn 1 và các đơn vị cơ hữu rút ra
cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ
bắc cầu để quân di tản đi ngược
vào đất liền rồi dùng đường bộ
về Đà Nẵng, Chu Lai. Sáng ngày 26-3
biển sóng to làm đ́nh trệ cuộc vận chuyển,
cầu chưa hoàn tất đến trưa thủy
triều dâng cao không thể vượt biển
được trong khi ấy Việt Cộng đuổi
theo nă pháo vào cửa Tư Hiền và các địa
điểm tập trung quân của ta, hỗn loạn
diễn ra không c̣n quân kỷ, sư đoàn 1 tan ră tại
đây chỉ có một phần ba về được
đến Đà nẵng, tới nơi họ ră ngũ
đi t́m thân nhân.
Trong khi
đó th́ lữ đoàn kỵ binh với hơn 100 thiết
giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế
tiến về cửa Thuận An, theo sau là các đơn
vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC,
BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ đang lũ
lượt kéo về, hỗn loạn diễn ra dữ
dội. Hai tầu dương vận hạm đến
cửa Thuận An để chở TQLC,
tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh
chở người từ bờ ra dương vận
hạm, hỗn loạn ngày càng dữ hơn, giết chóc
nhau dă man để giành chỗ trên tầu. Cộng
quân pháo kích vào địa điểm tập trung quân gây
thiệt hại nặng nề cho ta, nhiều lính TQLC
tự tử tập thể v́ cùng đường tuyệt
vọng, cuộc tập trung quân tại cửa Tư
Hiền và Thuận An đă làm mồi cho pháo binh
địch.
Sư đoàn 324 CS càn quét tàn quân VNCH
tại Thừa Thiên, sư đoàn 325 CS chuyển vào
Quảng Nam phối hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng
sư đoàn 2 VC cũng tiến về thành phố.
Quân đội VNCH lập pḥng tuyến pḥng thủ bảo
vệ Đà Nẵng, phía tây 2 lữ đoàn TQLC, phía nam
sư đoàn 3 và địa phương quân Quảng Nam.
Ngày 27-3 Các cuộc pḥng thủ Đà Nẵng thành ra vô
hiệu trước sự hỗn loạn, Việt cộng
dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc
Đà Nẵng hai sư đoàn 324B và 325C cùng với trung
đoàn xe tăng và hai trung đoàn pháo tiến dọc theo
thung lũng Voi bao vây thành phố, phía Nam sư đoàn 711,
304 tiến chiếm Đại Lộc và Dục
Đức, Đà Nẵng đă nằm trong tầm pháo
của quân thù. Tại thành phố lớn
thứ hai của miền nam này Quân đoàn 1 chỉ c̣n có
sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn TQLC, các sư đoàn 1 và 2
đă bị ră ngũ trên đường triệt thoái,
một phần đă được tầu chở ra
khơi, lực lượng không đủ để đương
đầu với áp lực quá đông của địch,
lại nữa thành phồ với hằng triệu
người tỵ nạn đă trở nên hỗn loạn
không thể nào kiểm soát nổi.
Sáng ngày 28
Tướng Trưởng họp khẩn cấp các
đơn vị trưởng ban hành một số biện
pháp văn hồi trật tự và tái trang bị các đơn
vị di tản trong thành phố nhưng ta không c̣n
đủ quân tác chiến để thực hiện kế
hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung
vào các đơn vị tác chiến nhưng không đủ
để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây
ra. Trưa 28/3 pḥng 2 thuộc Bộ TTM
cho Quân đoàn biết Cộng quân có thể tấn công trong
đêm, sư đoàn 1 không quân được lệnh di
tản về Phù Cát, Phan Rang, Quân đoàn 1 ban lệnh
ứng chiến tại các tuyến pḥng thủ. Hai giờ
trưa các xă ấp quanh Đà Nẵng đă lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân,
nghĩa quân tan ră, binh sĩ ră ngũ
rời đơn vị.
Việt
Cộng pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi
trời vừa tối rất dữ dội và chính xác
nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên chỉ
điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng
vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho
Tổng thống Thiệu xin di tản bằng
đường biển. Tướng Thiệu không ra
lệnh rơ ràng chỉ hỏi vu vơ
nếu di tản th́ có thể được bao nhiêu trong
khi ấy có biết bao người đang chết ch́m
chết bắn v́ trọng pháo của địch cũng
như bắn giết nhau giành đường tẩu thoát.
Pháo kích của địch khiến cho liên
lạc giữa Sài G̣n và Đà Nẵng bị cắt
đứt, Tướng Trưởng lập tức ra
lệnh bỏ Đà Nẵng, ông họp với Đề
đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh
Hải quân vùng 1 và các cấp chỉ huy để hẹn
địa điểm rút quân tại: chân đèo Hải Vân,
núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Rạng
sáng ngày 29-3 sương mù bao phủ dọc theo bờ
biển, ngoài khơi tầu đă có mặt ở
điểm hẹn, thủy triều thấp tầu không
vào bờ được, binh sĩ phải lội ra
biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi khi
Việt Cộng phát hiện chúng bèn pháo kích vào địa
điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi gây
nhiều thiệt hại cho ta, tầu di tản
được 6000 TQLC, 3000 lính sư đoàn 3 và nhiều
đơn vị khác.
Đà Nẵng được coi
như thất thủ ngày 29-3-1975.
Hạ
tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và
Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần
lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ
phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan
thương cho không biết nhiêu gia đ́nh quân nhân cũng
như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc
độ truy đuổi. Các đơn vị VC
đến tiếp thu, không bị
đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố
đă bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan
Rang cũng đă bỏ chạy, nên tiếp tục cho các
toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là
lần đầu tiên bị ngăn chận trước
khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng
Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ng̣i chờ viện binh.
Măi đến ngăy 16.4.1975, khi tung ra
toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan
Rang.
Vào
thời điểm các đại đơn vị ta rút
lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào
để làm khó khăn và thiệt hại cho đối
phương, th́ căn cứ Phan Rang đă anh dũng
chống cự, và đă làm thiệt hại đáng kể
cho quân đội chánh quy Bắc Việt.
Chiến
trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai
đoạn thứ nhứt từ ngày1 đến 3.4.1975, là
giai đoạn h́nh thành tuyến pḥng thủ, với Sư
đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ
đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa
phương quân c̣n lại.
Sư
đoàn 6 Không quân gồm:
– 3 Phi
đoàn A-37, 524, 534, 548
– 1 Phi
đội A-1
– 2 Phi
đội tản thuơng 259 B và 259 C
– 2 Phi
đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ
đoàn 3 Dù gồm:
–
Bộ chỉ huy
–
Tiểu đoàn 5
Giai
đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai
đoạn củng cố tuyến pḥng thủ, với
sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây
là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong
việc ổn định t́nh h́nh sau nhiều ngày xáo
trộn. Một số đơn vị nhỏ của
địch đă hoàn toàn bị đẩy lui khỏi
đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa,
Cam Lâm đợi tăng viện.
Lử
đoàn 2 Dù gồm:
– 3
Tiểu đoàn 3, 7, 11
– 1
Tiểu đoàn Pháo binh
– Các
đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin,
Yểm trợ Tiếp vận
Giai
đoạn thứ ba từ 13 đến 16,4.1975,
là giai đoạn của trận chiến quyết
định, với các đơn vị gồm:
Liên
đoàn 31 Biệt động quân gồm:
– 3
Tiểu đoàn 31, 36 và 52.
Tăng
cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương:
– Toán
Thám sát / Nha Kỷ thuật
Sư
đoàn 2 Bộ binh gồm:
– 2 Trung
đoàn 4 và 5
– 2 Pháo
đội gồm 10 khẩu 105 ly
– 2 Chi
đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
Lực
lượng Hải quân gồm:
– Duyên
đoàn 27
– 2 Khu
trục hạm
– 1 Giang
pháo hạm
– 1
Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ
Trong 2
ngăy 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về
Saigon. Liên
đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ
binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và
pḥng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày
16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với
các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975,
ngoài Duyên đoàn 27 đă có mặt tại Phan Rang, Hải
quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục
hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng
một số tàu yểm trợ.
Lực
lượng địch:
Theo tù
binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị
bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy
địch ngở Phan Rang đă bỏ chạy, nên tiếp
tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm
tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui
về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ng̣i chờ
đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ
phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt
động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi
nhận có mặt. (xác nhận bởi
Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá
Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại
mặt trận.)
I. H̀NH
THÀNH TUYẾN PH̉NG THỦ
Kể
từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ
Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ
tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng
ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử
Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một
phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút
từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ
về Saigon. Căn cứ lúc bấy giờ rất là
trống trải, v́ một số lớn quân nhân
Địa Phương Quđn canh gác ṿng đai
đă bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một
số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ v́ lo sợ
vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh
trưởng đă rời nhiệm sở, dân chúng th́
ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân
sự và quân sự chật nứt người rầm
rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại
hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và
đoàn xe của Trường Vơ Bị Đà Lạt
đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi B́nh
Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy
thực sự, căn cứ đang trở thành tiền
đồn và đang ở trong t́nh trạng hết sức
cô đơn.
Tướng Phạm
Ngọc Sang
Chuẩn
bị t́m phương kế giữ an
toàn, tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư
đoàn 6 Không Quân chỉ thị hạn chế sự ra vào
căn cứ để tránh xáo trộn do toán người
tháo chạy mang đến. V́ vậy nên khi nghe có đơn
vị Dù xin vào căn cứ, tướng Sang liền
hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được
biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu
để Lử đoăn III được văo
căn cứ như đơn vị tăng phái phối
hợp pḥng thủ, tướng Sang mới thuận cho
đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là
đúng lúc cần thiết và tướng Sang rất
bằng ḷng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong t́nh
trạng bỏ ngỏ. Tướng Sang
phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí
việc pḥng thủ căn cứ với Không đoàn
Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn
Văn Thiệt v́ căn cứ mênh mông với ṿng đai
h́nh vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Pḥng Thủ
chỉ có khả năng phụ trách canh gác ṿng đai
gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân
Phan Rang đă trở thành tiền đồn của
Miền Nam mà tướng Sang đang là người có
nhiệm vụ phải chống giữ. Tướng Sang
chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân
Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên,
để đừng xảy ra t́nh trạng bung chạy, v́
quá hoang mang, giao động trước việc, có thể
chiến đấu như bộ binh.
Trung tá
Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra
kiểm tra nội vi căn cứ và
đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn
Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ.
Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật
đê am hiểu t́nh h́nh mới, chấp nhận thực
trạng và hết ḿnh nổ lực chiến đấu v́
nhu cầu pḥng thủ.
Vào
buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú,
Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi
t́nh h́nh. Sáng hôm sau, ông rời căn cứ
bay về Saigon.
Ngày
2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị
Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp
với các đơn vị Địa phương quân trong
việc giữ an ninh cho thị xả.
Lúc 2 giờ chiều, tuwowsng Sang
bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn
Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp
tướng Sang, ông nói sở dĩ muốn gặp
tướng Sang tại Phan Thiết là để xác
nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ
nầy lẻ ra cũng đă bỏ chạy như Nha Trang
và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tướng Sang thuyết tŕnh
t́nh h́nh, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi
thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III,
trở thành cứ điểm cực Bắc của quân
đoàn.”
Cùng ngày
tướng Sang nhận được lệnh Bộ
tổng tham mưu chỉ định tướng Sang
phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày
3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực
cạnh thị xă và nội vi phi
trường. Từ Ba Râu đến Thị xă, dân chúng
bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn
c̣n rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ
đă chấn chỉnh an ninh nội
bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy
lại sanh hoạt b́nh thường.
Đại
tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92
Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim
Ngưu và 548 Ó Đen. đă sát cánh cùng
đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.
Trung tá
Lê Văn Bút Không đoàn trưởng
Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực
thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ
phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội
tản thương 259 C, đă bay thi hành nhiều công tác khó
khăn nguy hiễm.
Trung tá
Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang
bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
Theo tin
tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin
phương tiện về Saigon, th́ VC đang xuất
hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Tướng Sang
liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho
phi cơ A-37 đánh phá.
Cộng
thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu
đang gặp trở ngại v́ xe
bồn không cung cấp như b́nh thường, bởi
cảng Cam Ranh đă bị địch chiếm. V́ vậy
hàng ngày, tướng Sang phải nhận tiếp tế
từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số
lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà
thôi.
Để
tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập,
tướng Sang cũng phải cho nửa số phi cơ
về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên
liệu.
Trong
ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài
vịnh Phan Rang để chở một số
người, tướng Sang liền cử Trung tá Lư
Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong
những tàu đó để chào hỏi và cho biết
hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời
những điều muốn biết trong lối 1/2
giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời tŕnh thuật
của Trung tá Bút, tướng Sang đă
hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không c̣n có ư
định dính líu ǵ nửa đến cuộc chiến
đang diễn tiến hiện nay.
II –
BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang
nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao
bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc
và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long
rất thuận tiện cho việc pḥng ngự. Ngày đêm
phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh
tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn
vị VC đă tiến quá xa với hậu tuyến của
họ. Họ chỉ mới tiếp thu
Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây
số ngày hoặc gia tăng với phương tiện
chiếm được th́ không thể tập trung tấn
công ngay được. Có thể có những phần tử
lẻ tẻ đă xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài
ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi
quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2
hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1
tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là
từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân
Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra c̣n
có một ít đường ṃn từ Vườn Dừa,
Ba Ng̣i chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ
hướng về Tân Mỹ có thể chọn để
xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều
ngày 14.4.75, tướng Sang thấy một vài thiết
vận xa địch trên những đường ṃn
nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách
khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện,
chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh
tạc.)
Thị
xă và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của
cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và
đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du
long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát
phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xă.
Từ thị xă đến Du Long khoảng 15 km với Ba
Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ
Cà Đú đến thị xă, mặt đất bằng
phẳng.
Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh vuông,
mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL
11 và sát với đường xe lửa về
hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng
80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi
măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000
bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở
cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn
xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh
tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với
2 cổng chung quanh căn cứ do 7
đại đội Địa phương quân phụ
trâch.
Ngày
4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức
đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên,
nhận trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết
lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn
cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km
Bắc Tây Bắc của Thị xă Phan Rang. Ông cho biết là
đă được Thượng cấp chấp thuận
gởi ra một số đơn vị chưa bị
ảnh hưởng của việc rút quân để
giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa
hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm nhận
chức vụ.
V́
địa thế của Phan Rang có nhiều thuận
lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung tướng Nghi quan
niệm:
”
Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du
Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an
toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho
Thị xả phối họp với một số
đơn vị Địa phương quđn c̣n
lại.”
Theo quan
niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế
hoạch pḥng thủ Phan Rang với một lực
lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong
tạm thời pḥng thủ được. Đó là:
Mặt
Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm
cao tại đèo Du long với một dải chiến
tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ
tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi
cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc
vào căn cứ.
Mặt
phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân
Mỹ, một chiến tuyến để chận
địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi
trường.
Bảo
vệ an ninh cho thị xả và phi
trường do các đơn vị chánh quy phối hợp
với Địa phương quân phụ trách.
Ngày
5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không
quân thất lạc tŕnh diện xin phương tiện
về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC
xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói v́
có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp
chờ chi viện.
Ngoài ra
Tướng Times, phụ trách an ninh cho
Ṭa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ
sắp xếp cho người của ông thường xuyên
ở lại đây, để chuyển tin ngay về ṭa
đại sứ.
Trong
mấy ngày qua, tướng Sang đă điều hành công
việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài
trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô t́nh
tướng Sang đă biến căn cứ Không quân Phan Rang
thành một cứ điểm pḥng thủ tiền tiêu
của cuộc chiến tranh rất phức tạp
nầy.
Ngày
6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân
đă có sự b́nh thường và các phi vụ đều
được thi hành như thông lệ. Thêm một số
quân nhân của 7 Đại đội Địa
phương quân phụ trách canh gác ṿng ngoài phi trường
tiếp tục trở về.
Quân
địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vă
đến tiếp thu Cam Ranh. Toán
viễn thám của họ theo đă
chạy tiếp thu, có thể đă xâm nhập từ
Vườn Dừa, Ba Ng̣i, qua đồi Du Long, xuống
về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa
thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn
vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ
tẻ.
Ngày
7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
Đại
tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang,
vừa trở về với một số công chức, và
đang tập họp các lính Địa phương quân và
Nghĩa quân.
Đại
tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng
Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1
Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội
Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp
vận lần lượt đến căn cứ. Trung
tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các
cao điểm và tổ chức tuyến pḥng thủ
tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây.
Tập trung lực lượng khi cần để
chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử
dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có
mặt tại căn cứ giữ an
ninh cho phi trường.
Ngày
8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ
đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá
Lương liền điều động giải tỏa
đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xă đến Du
Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2
Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường
tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch
chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch
tổn thất khoảng một đại đội
với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được
trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa
đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng
yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.
Bắt
sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc
đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính
VC, v́ ngở Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ
ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, t́m thấy
bộ đồ bay của Trung úy Lư Tống, thuộc Không
đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, c̣n
để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của
anh vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh
tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lư Tống là
người đă thả truyền đơn chống
cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba đầu
năm năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân
dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm
Việt Nam.)
Tại
phía Tây, phần lớn Tiểu đoàn 5 Dù đă trấn
ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ,
ngừa được sự tấn chiếm từ
hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù
cũng lại đuổi khỏi đồn Đại
Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm
nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc
giữ an ninh trong căn cứ không quân với
Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả
là trong ngày nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát
được t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi
Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.
Buổi
sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh
Độc Lập, th́ Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo
tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đă
được cấp tốc thi hành, và Trung đă không bay
qua đây.
Đặc
biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn
khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để
hoan nghênh quân Dù đă giải tỏa được Phan Rang.
Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với
lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ
của giáo xứ đă thành công bảo vệ địa
phận ḿnh chống lại các cố gắng len lỏi xâm
nhập của địch.
Ngày
9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không
đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực
thăng HU với 12 trực thăng Vơ trang cơ hữu
cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Ḥa biệt phái.
Mục đích là để lên Khánh Dương t́m kiếm
và chở về các toán c̣n kẹt lại của Lữ
đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số
quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng
đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó
Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp t́m kiếm, chọn băi đáp
để rước toán thất lạc nầy trở
về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa
trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ.
Kết quả là đoàn trực thăng đă mang về
đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà
phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và
6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn
5 với một số ít dân sự chạy loạn đi
theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở
toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận
thành công tốt đẹp, đem về được
số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù.
Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch
sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đă phải bay
qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và
bất trắc khôn lường.
Trong
thị xă, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh
trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần
vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn
hàng ngũ các đơn vị
Địa phương quân. Ngoài thị xă, dân chúng hăy c̣n e
dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như
những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu
trở lại b́nh thường, tạo nhiều phấn
khởi.
Các ngày
10 và 11. 4.1975 có được sự yên
tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh
tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm
lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang.
Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa
điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng
Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện
quân.
Ngày
12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong
việc pḥng thủ Phan Rang.
Lệnh
từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn
2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên
đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn,
và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi
đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.
Liên
đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn
Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với
nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng
quân, th́ được tung ra tiền
tuyến với quân số thiếu thốn trầm
trọng.
Sư
đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ
Quảng Ngải, vừa tập trung tại B́nh Tuy và
đang được bổ sung quân số th́
được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả
đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́
chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị
nầy phải thu lượm một
số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng
với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường
bộ.
Bộ
Tổng tham mưu Pḥng 7 vừa bổ sung toán thám sát, v́
kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô
tuyến của các đơn vị địch xung quanh
Phan Rang.
Chuẩn
tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn
Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không
Quân, cùng đến thám sát công cuộc pḥng thủ. Cả
hai vị đều tỏ ư bất đồng về
việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói
để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai
lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn đạn
pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ
có khả năng hành quân như yêu cầu được.
Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn
giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại
Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị
đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2
đơn vị đă từng vội vă rút quân vă c̣n
đang chờ đợi bổ sung quân số.
Trung
tướng Nghi cũng bất ngờ v́ không có
được những đơn vị như đă
hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm pḥng thủ
Phan Rang.
III.
TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày
13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may
xảy đến cho tuyến pḥng thủ Phan Rang.
Trong
ngày, liên tục toán kiểm thính Pḥng 7 TTM báo cáo có sự
hoạt động bất thường của các
đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc
Việt.
Tướng
Times của Ṭa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay
đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên
truyền tin, để chuyển về Ṭa Đại
sứ mọi biến chuyển mới nhứt của
mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm
việc và rất b́nh tĩnh lúc địch dồn dập
tấn công.
Sau
mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển
quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn
cứ không quđn. Các đơn vị địch đang
t́m cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du
Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập
lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân,
phối họp với từng đợt pháo kích.
Tiếc
thay, trong t́nh thế như vậy mà cơ cấu pḥng
thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến
đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa
mới được bổ sung sau khi bị tổn
thất nhiều về trang bị và tinh thần.
Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2
Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần
nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3
Dù rời căn cứ, th́ Đại tá Nguyễn Văn
Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt
động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa
từ Biên Ḥa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn
gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị
liền vội vă đến trám vào các địa
điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù
tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long,
Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và
Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân th́
chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.
Cùng lúc,
Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số
khoảng 450 người, từ B́nh Tuy theo đường
bộ cũng vừa tới, và được giao trách
nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo
vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa
rời căn cứ.
Theo
khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân,
Đại tá Nguyễn Đ́nh Giao, Tham mưu trưởng
Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng
các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ
lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.
Ngày
14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư
lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân,
được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam
căn cứ và phi trường v́ Lữ đoàn 2 Dù đă
hết nhiệm vụ và đă bàn giao với Trung đoàn 4
hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo
đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu
trong đó có một Trung đội đóng tại An
Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
Thị
xả được pḥng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân
c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn
Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá
Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay
Đại tá Trần Văn Tự.
Cũng
để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp
tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi
đến, một phi cơ C-47 để tăng
cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư
lệnh Hành quân.
Bên ngoài
căn cứ, từ sáng sớm, địch lần
lượt tung vài đơn vị
cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh
thăm ḍ cơ cấu pḥng thủ tại Du Long và Ba Râu.
Một trong các đơn vị nầy đă xâm nhập
được vào cổng số 2 phi
trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ
trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với
trực thăng vơ trang, yểm trợ cho một bộ
phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ
về hậu tuyến, được gởi ra tiêu
diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch
rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ
với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó
có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt
75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1
thiết vận xa pḥng thủ phi trường bị chây.
Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy
chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.
Khoảng
trưa, Tướng Nghi và tướng Sang cùng Đại
tá Lương chạy xe thong thả
từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long
thị sát công việc pḥng thủ. Tại Du Long
Tướng Nghi tập họp và trấn an số Nghĩa
quân có mặt tại đây.
Tóm
lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm ḍ
của địch, mặt trận vẫn đứng
vững như những ngày qua.
Ngày 15.4.1975 từ sáng
sớm địch liên tục pháo từng chập văo
căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung
tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng
Quốc pḥng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn
Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt
trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi
thuyết tŕnh t́nh h́nh và ghi nhận các đề nghị,
Trung tướng Tổng trưởng Quốc pḥng tỏ
vẻ chú trọng đến việc pḥng thủ Phan Rang và
hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy
đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.
Từ
chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp
nhận được tin địch sẽ tập trung
tấn công đêm nay. Một trong những công điện
của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông
Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ
tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo
đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa,
theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa
ở Ba Ng̣i. Biết ư định của địch, Trung
tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề
pḥng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt
động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng
cường độ pháo vào phi trường, đồng
thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều
đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt
đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua
pḥng tuyến pḥng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt
động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đă
ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc
dầu đoàn xe địch vượt
được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá
Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di
chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở
đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù,
cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân
vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm
chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn
cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích,
chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và
lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn
chăn, nhưng v́ không đủ phương tiện soi
sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị
tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị
bắn bể b́nh xăng phải về đáp. Trận
nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đă tung
toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của
Phi đoàn 530.
Tướng
Sang cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư
đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi
trận đánh suốt đêm. Hai ông liên tục đốc
thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các
đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo
địch đang xử dụng hàng đoàn xe
để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống.
Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn
vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xă lúc 7 giờsángngày16.4.1975.
Tại
Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi
cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không
nhận được tin ǵ từ Du Long của Liên
đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá
Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú
Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt
động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du
Long cho biết không hiểu v́ lư do ǵ mà từ 2 giờ sáng không liên
lạc được với Bộ chỉ huy.
Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là v́ đă 3
ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miên đụng
địch nên cấp số đạn dược mang theo đă gần cạn. Đến sáng, khu
vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những
lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nh́n vào phi trường thấy
đang bị pháo kích.)
Ngày
16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm
nhập vào cổng số 2 của phi trường về
hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy.
Đến khi pḥng không chúng bắn trúng chiếc phi cơ
quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở
lại đâp khẩn cấp, th́ đồng thời chúng
gia tăng số lượng pháo kích.
Lúc
bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo
là Du long bị mất và địch đă vào thị xă
khiến cho Trung tướng Nghi phải t́m phương
thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt
vừa đặt văn pḥng cạnh Văn pḥng Trung
tướng Nghi, liền được mời tham gia vào
việc duyệt xét t́nh h́nh. Sau đó Ông đi thị sát
mặt trận tại nơi trách nhiệm của
đơn vị ḿnh.
Trong khi
Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ
bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5
đang pḥng ngự địch tràn lên từ thị xả,
th́ bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có
chiều hướng bất lợi. Địch vẫn
giữ mức độ pháo kích quấy rối từng
chập. Nhân có các khoảng trống giữa những
đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đă
rời căn cứ. C̣n lại chỉ có một số
rất ít trực thăng vơ trang và tản thương
ở lại đến phút chót.
Khoảng
hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng vơ
trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn
đồi gần phi trường th́ t́nh h́nh đă khá nguy
ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch.
Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền
phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy
lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh
Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung
tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả
năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo
vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn
chận địch tràn vào cổng số 1 của căn
cứ.
Đến
khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng
dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng
Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và
tướng Sang để tái duyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ
mặt trận đă bị thủng từ Du Long và
địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung
tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ
Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để
lập tuyến pḥng thủ mới tại đó, nếu
địch chọc thủng được pḥng tuyến
bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi
khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
Khoảng
10:30 giờ sáng, măi đến khi các toán
quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh
Tiền phương th́ Trung tướng Nghi mới ra
lịnh rời căn cứ bằng đường bộ,
từng đơn vị theo đơn vị trưởng
ḿnh rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng
tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá
Lương, Ông Lewis chuyên viên Ṭa Đại sứ Mỹ
cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền
phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng
các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt
động quân lối 400 người
rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về
hướng Nam.
Đoàn
quân di chuyển trật tự đến cổng số 1
khoảng 11 giờ, để cùng
đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự
định. Tại đây, v́ không liên lạc
được với Chuẩn tướng Nhựt, nên
Trung tướng Nghi quyết định theo
đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo
đường từ Tour Cham đến ngă ba An
Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ
Đức lúc 12 giờ trưa.
Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn
3 Dù lần xuống băi biển, tẻ sâu về
hướng Nam và không c̣n thấy Giang đoàn 27, chiến
hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại
cảng Ninh Chử. Đến một băi cát xa hơn
về hướng Nam của thị xả, đơn
vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán
quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát ṿng vây với
ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù
được một đoàn trực thăng, bốc
về an toăn. (Đoàn trực
thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ
tư lệnh tiền phương, nhưng v́ Trung
tướng Nghi không thuận cho đáp v́ lư do an toàn băi
đáp, nên trên đường trở về, mới
bốc được toán Dù trên.)
Tiểu
đoàn 11 Dù c̣n lại rút được qua sông, phối
hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục
kích ở Thôn Phú Qúy về được an
toăn.
Liên
đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ
binh với một ít đơn vị cố gắng di
chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên
đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ
huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên
đường rút về An Phước nơi có Trung
đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp
địch đă đóng làm nút chận tại đây
rồi,
Tại
phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi
di chuyển khá xa, th́ Sư đoàn 325 VC phối họp
với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và
chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
Thiệt
hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng
kể v́ mất toàn bộ kho bom đạn và các trang
thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ
đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn
thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37
rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực
thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực
thăng bị bắn nhưng về đáp được
an toàn.
Hải
quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị ch́m và
mộït chiến hạm bị pháo.
Tại
Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi
được toán truyền tin của Đại tá
Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị
trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với
số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên
khó bóc hết được, vả lại khi trực
thăng đến, khó ḷng mà giữ được
trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn
loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây
bắt. V́ vậy Trung tướng Nghi quyết định
v́ sự an toàn cho đồng
đội, từng khổ cực chiến đấu
với nhau mà không v́ an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán
cứu cấp đó không nên đáp, và chỉ nên đến
ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn
về phía Nam.
Lúc 9 giờ tối, dưới sự
hướng dẫn của Đại tá Lương,
đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ
Đức. Chưa đi được bao xa th́ bị phục
kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tướng Sang cùng
một số quân nhân bị địch bắt. Chúng
dẫn 3 người ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tướng Sang
thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt
dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào
ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược
trở về.. Ở tại Đồn
điền Yersin 2 ngày, chúng đưa họ ra Đà
Nẳng
bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975
chúng đem phi cơ chở 3 người ra Bắc, giam
tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh
Mỹ.
Sau ngày
1-4-75, Quân đoàn II chỉ c̣n lại Ninh Thuận, B́nh
Thuận, nên được sát nhập vào Quân đoàn III.
Phan Rang và Xuân Lộc trở thành 2 cửa ngỏ để
Cộng sản Bắc việt vào Sàig̣n bằng quốc
lộ 1 và 20.
Xuân
Lộc là Tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh,
được Tổng Thống Diệm thành lập từ
năm 1957 bằng cách cắt bớt phần đất
của tỉnh Biên Ḥa, mục đích định cư
đồng bào Việt, Mường, Nùng, Thái di cư
năm 1954. Tỉnh có diện tích vào khoảng 3457 cây số
vuông, đất đai phần lớn là núi thấp,
đồi cao, rừng thưa và đồn điền cao
su. Long Khánh chiếm một vị trí chiến lược
quan trọng, v́ là ngă ba của 2 quốc lộ 1 và 20.
Cửa ngỏ từ Miền Trung, Miền Cao nguyên vào Sàig̣n
chỉ cách nhau 80 cây số, do đó Xuân Lộc
được coi như ṿng đai
bảo vệ phi trường Biên Ḥa và Thủ đô. Xuân
Lộc lại nằm trên đường giao liên giữa
chiến khu C và D của VC với các mật khu Mây Tào, Cù Mi,
Xuyên Mộc, Đất Đỏ của tỉnh
Phước Tuy, con đường mạch máu mà Bắc
việt dùng để nhận tiếp tế, bổ sung
quân và tiếp liệu bằng đường biển. V́
vậy, từ lâu Sư đoàn 18 BB đă được
bố trí tại Tỉnh này để ngăn chận.
Để cắt đứt đường rút quân
của VNCH từ 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm
Đồng,
Bắc việt tấn công quận Định Quán do
Tiểu đoàn 2/43 trấn giữ, và trong khi đang giao
tranh đẩm máu, Không quân VN đă thả 2 trái bom 500 cân
Anh vào vị trí của quân ta tại núi Đất,
khiến gần 20 người chết và bị
thương, trong đó có cả vị Tiểu đoàn
trưởng. C̣n
Định Quán mất ngày 17-3.
Để
tấn công Long Khánh, Bắc Việt đă tung vào chiến
trường này Quân đoàn 4, gồm 3 Sư đoàn 6, 7, 341
và các đơn vị có sẵn của Quân khu 7. Thiếu
tướng CS Hoàng Cầm là Tư Lệnh. Chính ủy là
Thiếu tướng Hoàng Thế Hiệp. Trận chiến
đẩm máu đă đồng loạt xảy ra tại 3
pḥng tuyến: ngă ba Dầu Giây, thị xă Xuân Lộc và Gia
Rai (nằm tiếp cận giữa B́nh Tuy-Long Khánh). Phía VNCH có Sư đoàn 18 BB (các Trung đoàn 43, 48,
52), lực lượng ĐPQ, NQ Tỉnh và các đơn
vị tăng phái gồm: Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5 BB),
Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên đoàn 7 BĐQ, 2 Tiểu
đoàn Pháo binh, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù và toàn bộ
Lữ đoàn 1 Dù với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và
Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Sư đoàn 4 Không quân VN
từ phi trường Cần Thơ phụ trách không
yểm chiến thuật. Tất cả các lực
lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của
Tướng Lê Minh Đảo (Tư Lệnh Sư đoàn
18 BB) và 2 phụ tá tài giỏi, uy tín: Đại tá Tư
lệnh phó Lê Xuân Mai và Tỉnh trưởng Long Khánh
Đại tá Phạm Văn Phúc BĐQ, mới về thay
Trung tá Lê Ánh Nguyệt hồi tháng 3-75.
Tương Lê Minh
Đảo
Chiến
trường Long Khánh gồm cả 3 mặt trận chính:
Mặt trận ngă ba Dầu Giây di Trung đoàn 52 và 1
Thiết đoàn Chiến xa trấn giữ. Mặt trận
núi Chứa Chan, Gia Rai do Liên đoàn 7 BĐQ và Trung đoàn 48
BB. Thị xă Xuân Lộc do Trung đoàn 43 BB và các Tiểu
đoàn ĐPQ bảo vệ. BTL hành quân của Tướng
Lê Minh Đảo được đặt tại Quận
đường Xuân Lộc, mé ngă ba Tân Phong - Long Giao
được bảo vệ bởi các đơn vị trừ
bị của Sư đoàn, Pháo binh và 1 Thiết đoàn
Chiến xa.
Thế rồi vào lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 9-4, khi
vạn vật bắt đầu bằng một ngày
mới, chim chóc rời tổ kiếm ăn, dân chúng dọn
hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi lễ
sớm tại các nhà thờ, các loa phóng thanh của Ty Thông
tin Xuân Lộc mở đầu bằng các bài hát trữ
t́nh thương lính... th́ cũng là lúc Bắc việt nă hàng
ngàn quả pháo đủ loại vào thành phố, đa
số rớt vào chợ, nhà thờ và nhà của dân chúng,
khiến cho người dân vô tội chết và bị
thương như rạ v́ trận pháo kích kéo dài trong 2
tiếng đồng hồ với hơn 300 trái đạn
liên tục không hết, nên dân chúng không biết chạy
đâu để trốn tránh tử thần.
8 giờ Bắc việt
tấn công vào thành phố nhưng bị chận lại
bởi Trung đoàn 43 BB và Tiểu đoàn 3/4 ĐPQ Long Khánh
nên phải chém vè sau khi bỏ lại tại chỗ 100
tử thi. Nhiều T54, PT76 bị hạ khắp nơi
bời các hỏa tiễn M72 và các phản lực cơ A37,
F5 của Không quân.
Ngày
10-4, Cộng quân trở lại tấn công Xuân Lộc
với 2 Sư đoàn 6, 2 và các Trung đoàn chiến xa,
khắp các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành
phố, từ ṭa Thị chính đến sân bay, nơi nào
Cộng quân cũng sử dụng quân số cấp Trung
đoàn. Cuộc chiến kéo dài trong nhiều ngày, cả hai
phía dành giựt từng ngôi nhà, pḥng tuyến để
sống. Không quân VN đă yểm trợ tích cực và
hữu hiệu cho các đơn vị dưới
đất bằng các phản lực cơ tối tân F5E,
góp phần tiêu diệt số lớn Cộng quân. Trung
đoàn 43 BB mặc dù đă bị Cộng quân cắt ra
từng đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp
tục chống trả mănh liệt, gây cho địch
nhiều tổn thất như Văn Tiến Dũng đă
phải xác nhận trong tác phẩm Mùa Xuân Đại
Thắng.
Qua đến ngày 4 của cuộc chiến, Lữ
đoàn I Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu
đoàn 3 Pháo binh Dù từ Miền Trung về,
được lệnh tăng cường cho Xuân Lộc.
Tất cả các trực thăng của 2 Sư đoàn 3, 4
Không quân, gồm 100 trực thăng bán phản lực HUIB
đă thả hơn 2000 quân Dù từ Trảng Bom vào trận
địa, các Pháo đội Dù cũng được
trực thăng Chinook chuyển vận đến Bộ
chỉ huy Hành quân đóng kề BTL Sư đoàn 18 BB. Hai Tiểu đoàn Dù
đầu tiên đă nhảy xuống đầu
địch để chiếm lại Bảo Định
trên quốc lộ 1, nơi 2 Trung đoàn thuộc Công
trường 6 đang tập trung tấn công BTL Sư
đoàn 18 BB tại Tân Phong. Một Tiểu đoàn Dù khác
nhảy xuống chiếm lại vườn cây của
cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ. Ngoài ra các
Tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc để
giải vây cho các Tiểu đoàn ĐPQ và BCH Tiểu Khu Long
Khánh.
Tại
ngă ba Dầu Giây, Cộng quân cũng đồng loạt
tấn công Chiến đoàn 52 từ ngày 12-4 bằng
biển người và tăng, pháo. Lần lượt các
tiền đồn, pḥng tuyến của Trung đoàn 52
từ Kiệm Tân về tới ấp Phan Bội Châu trên
quốc lộ 20 bị tràn ngập. Cuộc
chiến trở nên ác liệt đẩm máu đă xảy ra
chiều ngày 15-4-75 ngay tại xă Dầu Giây, ngă ba 2 quốc
lộ 1 - 20, giữa Chiến đoàn 52 BB (gồm Trung
đoàn 52, Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, các lực
lượng ĐPQ Kiệm Tân - Long Khánh, tổng cộng
khoảng 2000 người) và buộc Đoàn 4 Bắc
việt trong đó có Sư đoàn Tổng trừ bị
của Hà nội 341 vừa từ Thanh Hóa vào, do Trần
Văn Trà vừa thay thế Hoàng Cầm chỉ huy, đă
cho áp dụng chiến thuật biển người.
Trong trận chiến tàn bạo, khủng khiếp này, 1
người lính VNCH đă chọi với 10 lính CS Bắc
việt với tăng và pháo. Chiến đoàn 52 đă tan
hàng đêm 15-4, tất cả pháo binh, thiết giáp,
người, đều bị hủy diệt sau 6 ngày
đêm ác chiến, 9 giờ đêm đó, khi chiếc
hầm chỉ huy của Chiến đoàn bị bắn
sập, Đại tá Chiến đoàn trưởng mới
cho rút quân với vỏn vẹn 200 người
được sống sót.
Nhưng theo lời Tướng Nguyễn Văn Toàn
th́ chính ông quyết định rút bỏ Long Khánh v́ thấy
rằng pḥng tuyến này không c̣n được giữ lâu,
hơn nữa Cộng quân sau khi bị thiệt hại
nặng nề đă cho thay đổi kế hoạch
tấn công Sàig̣n bằng chiến dịch 2 với 5 Sư
đoàn Biên Ḥa, Phước Tuy đồng loạt với 3
Sư đoàn khác tại Tây Ninh. V́ vậy Long Khánh không c̣n là
điểm nóng, nên tất cả các lực lương tham
chiến tại đây phải rút lui về Biên Ḥa
để lập pḥng tuyến mới.
Qua 12
ngày ác chiến đẩm máu, tuyến thép Xuân Lộc
vẫn đứng vững dù Phan Rang đă thất thủ 17-4, Phan Thiết mất đêm 18-4, B́nh
Tuy bỏ ngỏ, giờ đây Xuân Lộc là vùng giới
tuyến của đất nước. Tin
thắng trận của Sư đoàn 18, Lữ đoàn 1 Dù,
BĐQ, Thiết giáp, ĐPQ, Lôi hổ và Không quân tới
tấp bay về Sàig̣n như những gáo nước
lạnh tạt vào mặt bọn nhà báo, nhà văn, kư
giả, trí thức ngoại quốc và VN, khiến chúng không
có cách nào hơn để bóp méo sự thật, xuyên
tạc, nên cũng cúi đầu kính phục tinh thần
bất khuất của người VN, bởi v́ đây là
chiến thắng vĩ đại cuối cùng của QLVNCH
trước khi bị ră ngũ.
10
giờ sáng ngày 20-4-75, lệnh bỏ Long Khánh
được ban hành bởi Tư Lệnh Sư đoàn 18
BB, tất cả các lực lượng tại đây dùng
Liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Long, Long Giao
về Phước Tuy với 3 cánh quân Sư đoàn 18 BB,
Tiểu khu Long Khánh và ĐPQ, Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu
đoàn 3 pháo binh Dù.
Trong
cuộc lui quân này, Lữ đoàn 1 Dù bị thiệt tḥi và
nguy hiểm nhất v́ là đơn vị đoạn
hậu, đang chống trả với Cộng quân, 2 bên c̣n
đang giao tranh ác liệt tại Bảo Định th́ 7 giờ tối 20-4 có lệnh rút quân,
trong khi thương binh và tử thi lính chưa
được di tản. Nhưng tất cả đă
phải bỏ lại như năm nào tại Hạ Lào,
bởi v́ đối với người c̣n sống,
đoạn đường xác người hơn 40 cây
số trong rừng cao su đen nghịt để ra
quốc lộ 1, là các cửa địa ngục phải
vượt qua. Tất cảthảm trạng trên
đều là những oan khiên bi thiết của
người lính VNCH.
9 giờ tối, các Tiểu đoàn Dù
mới tới quốc lộ 1 và một hoạt cảnh
cảm động đă diễn ra, tất cả các con
chiên của các xóm đạo Bảo Định, Bảo
Toàn, Bảo Ḥa đă tập trung sẵn.
Mấy chục cây số đường rừng
bị bỏ hoang trên Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong
đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa không
phải là chuyện b́nh thường của một đoàn
quân có dân chúng lẫn lộn, bởi vậy ngay trong đêm
rút quân 20-4-75, Trung tá Lê Quang Định, Tiểu khu phó
Tiểu khu Long Khánh đă bị tử thương v́
nhiều loạt B 40 của Cộng quân trong khi đang di
chuyển.
Lữ
đoàn 1 Dù rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu đoàn 3 Pháo
binh được di chuyển trên đường lộ
với đại đội Trinh sát Dù, các Tiểu đoàn
tác chiến đều mở đường bọc sâu
trong rừng.
4 giờ sáng ngày 21-4-75, tại ấp
Quí Cả, gần ranh giới Long Khánh - Phước Tuy,
Tiểu đoàn 3 Dù và đại đội Trinh sát Dù đă
bị 2 Tiểu đoàn CS Bắc việt phục kích. Pháo
đội C và Trung đội Trinh sát bảo vệ,
hầu hết bị thương vong trước biển
người tấn công. Cánh quân đi đầu của
Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng
với CS tại thung lũngGia-rai, dưới chân núi Cam
Tiêm. Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút
quân trên Liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn toàn kết quả
tốt đẹp. Sư đoàn 18 BB được
chỉ định về pḥng thủ mặt Đông
Thủ đô, từ Tổng kho Long B́nh đến kho
đạn Thành Tuy Hạ, tiếp cận với các lực
lượng của Trường Bộ binh Thủ
Đức. Trướng Thiết giáp và Lữ đoàn 1 Dù
có trách nhiệm bảo vệ quốc lộ 15, từ Long
Thành về Bà Rịa.
Tại
ṿng đai Sài G̣n, tuyến pḥng thủ của Quân lực
VNCH đă phải co cụm lại: vùng Tây Bắc c̣n
lại tỉnh Biên Ḥa, phía Đông c̣n Long Thành, phía Bắc
c̣n Lai Khê, phía Đông Nam c̣n Hóc Môn.
Trong
đêm 26 tháng 4/1975, Cộng quân
đồng loạt tấn công khu Tân Cảng, cầu Biên
Ḥa và đài phát tuyến Phú Lâm.
TIỂU
ĐOÀN 12 / LỮ ĐOÀN 4 NHẢY DÙ :
đang bảo vệ dinh Độc Lập đă
được điều động đến Tân
Cảng và nhanh chóng quét sạch địch quân khỏi khu
vực này...
Khoảng
giữa trưa ngày 28/04/1975 một lực lượng
Đặc công CS cấp đại đội một
lần nữa tấn công và chiếm đóng phía đông
đầu cầu xa lộ (Tân Cảng) và khu vực phía
đông của cầu.
Địch
sử dụng hỏa lực Thượng liên đặt
trên lầu của hồ tắm Thiên Nga (nằm cách
đầu cầu khoảng 100m) khống chế phần giữa
cầu khiến đơn vị Địa Phương
Quân (ĐPQ) từ phần đầu cầu phía Tây không
thể tiến qua phản công được. Cộng quân
đang t́m cách chiếm nốt cây cầu. Giao thông trên xa
lộ giữa Sài G̣n và Biên Ḥa bị gián đoạn.
Tiểu Đoàn 12 ND (TĐ12ND) trực thuộc Lữ
đoàn 4 Nhảy Dù (LĐ4ND) được đặt
trong t́nh trạng ứng chiến cho bộ Tư lệnh
Biệt Khu Thủ Đô (BTL/BKTĐ), TĐ (-) bố trí
trong khuôn viên của Thảo cầm viên Sài G̣n c̣n 1
Đại đội nằm tại khu vực BỘ Canh
Nông ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan
Thanh Giản với nhiệm vụ trấn giữ cầu
Phan Thanh Giản.
: Hai
Đ/ĐPQ dưới quyền chỉ huy của Trung tá
Tiểu khu phó Tiểu khu Gia Định (TKGĐ) đang
phản công để tái chiếm đầu cầu
nằm về hướng Biên Ḥa. Hải quân Tân Cảng
cung cấp tàu bè làm phương tiện vượt sông cho
Tiểu Đoàn ND.
Tiểu
Đoàn ND phối hợp với TKTĐ và Hải quân Tân
Cảng để phản công tái chiếm phần cầu
bị địch chiếm giữ và khai thông xa lộ trong
thời gian ngắn nhất.
Ư
định hành quân: Tiểu Đoàn 12 ND sẽ sử
dụng của Hải quân Tân Cảng để
vượt sông từ hai mặt nam và bắc của cây
cầu và hai cánh quân sẽ tấn công các vị trí của
địch từ hai gọng ḱm này. Cánh quân A
gồm BCH/TĐ và các ĐĐ 120, 123, 124 sẽ
vượt sông từ khu vực cư xá Thanh Đa, cánh quân
B do Thiếu tá TĐP Nguyễn Trọng Nhi sẽ
vượt sông từ khu vực Tân Cảng với 2 Đ
121 và 122.
Khoảng
1500g toàn bộ Tiểu
Đoàn ND dùng GMC từ Thảo cầm viên qua cầu
Thị Nghè theo đường Hùng
Vương rồi theo Hàng Xanh tới cầu Kinh. Tại
đây cánh quân A được mấy
chiếc giang đỉnh chở qua bờ sông Sài G̣n. Cánh quân B di chuyển bộ dọc theo các khu
vực nhà ven sông để di chuyển về cầu Tân
Cảng. ĐĐ 121 của Trung úy Nguyễn Văn Nam
được Thiếu tá Nhi chỉ định nằm
lại tại chân cầu làm lực lượng trừ
bị và hỗ trợ cho cánh quân B vượt sông, phần
c̣n lại gồm BCH nhẹ cùng Đ 122 của Đại
úy Đỗ Việt Hùng được xà lan Hải quân
đưa qua sông. Có lẽ do những tiếng súng
nổ rền vang trên cầu nên ĐĐ 122
đổ bộ lên bờ đông sông Sải G̣n không
bị địch phát hiện. Khoảng 16:30 giờ, ĐĐ 122 lặng lẽ
vượt mấy con rạch nhỏ nằm song song
với xa lộ và tấn công lên các lều của mấy
quán giải khát dựng dọc theo
bờ nam của xa lộ. Súng bắt đầu nổ và
các binh sĩ nhảy dù nhanh chóng chiếm được
một số lều do CS chiếm tại đó.
Mục
tiêu cuối cùng là quán Cây Dừa cũng bị chiếm sau
hơn 30 phút giao tranh. Một số địch nhảy
xuống mấy con rạch để chạy trốn
cũng bị rượt bắt, một số ít
đầu hàng, c̣n phần đông bị thương do
đạn bắn theo hoặc do lựu
đạn ném xuống rạch.
Trong khi
đó, cánh quân A sau khi vượt sông
bắt đầu tiến nhanh qua khu làng Báo Chí rồi
trực chỉ hồ tắm Thiên Nga. ĐĐ 124 của Trung úy Nguyễn Văn Tùng tiến
chiếm chùa Kỳ Quang. Chùa này nằm cùng phía với
hồ tắm Thiên Nga ở phía bắc ven xa lộ và cách
hồ tắm khoảng hơn 400m. Từ chùa ĐĐ124 tấn công
từ hướng đông thẳng xuống hồ tắm.
ĐĐ 123 của Trung úy Sơn Bum dưới sự
yểm trợ của súng cối 81 mm của ĐĐ 120 của Trung úy
Thượng cũng bắt đầu tiến sát và
tấn công hồ tắm từ hướng bắc.
Khoảng 1800g làm chủ hồ
tắm. Địch bỏ lại khoảng trên 10 xác
chết. Trên lan can lầu xác hai xạ
thủ thượng liên chân đều bị xích vào thành
lan can. Cánh quân A bắt đầu
lục soát về phía chân cầu.
Đến
1900g TĐ hoàn tất
nhiệm vụ chiếm lại phần dầu cầu
nằm ở hướng đông cùng dọn dẹp
sạch sẽ khu vực này. Tổng kết hành quân,
Tiểu Đoàn 12 ND tổn thất không đáng kể,
địch để lại khoảng hơn 40 xác
chết. TĐ bắt được hơn 20 tù binh, phần
đông đều thuộc TĐ4 đặc công CS của
quận Thủ Đức.
TĐ
được lệnh bố trí pḥng thủ khu vực phía
đông của cầu. Khoảng 20:00 giờ Trung tá Lê Minh Ngọc cho
lệnh TĐ gởi 1 ĐĐ lên
trấn giữ khu vực ngă tư xa lộ - Thủ
Đức.
Ngày
29/4/75 - T́nh h́nh trong ngày vô sự. Khoảng 22:00 giờ một số quân xa chở
binh sĩ và gia đ́nh cùng thiết giáp từ hướng
Biên Ḥa đổ về Sải G̣n đều bị TĐ
chận lại bên này cầu. Một vị Đại tá
thuộc Quân đoàn III và một vị Trung tá mang bảng
tên Quư yêu cầu TĐ cho nhóm gia đ́nh quân nhân qua cầu
vào Sài G̣n đồng thời cũng cho Thiếu tá Nhi
biết là trên Biên Ḥa đă được lệnh rút
về Sải G̣n. Thiếu tá Nghiêm quyết định cho
nhóm gia đ́nh quân nhân này qua ngoại trừ mấy xe
thiết giáp nằm lại pḥng thủ chung với Tiểu
Đoàn 12 ND . Thiếu tá Nghiêm cũng cho
lệnh rút ĐĐ 123 của
Đại úy Hùng đang trấn giữ tại ngă tư xa
lộ - Thủ Đức rút về. T́nh h́nh trong đêm
tương đối yên lặng.
Ngày
30/4/75 - Khoảng 0730g Ngày 30/4/75 - Khoảng 0730g Tiểu
Đoàn 12 ND nhận lệnh cho đoàn thiết giáp của
Quân đoàn III vào Sài G̣n để họ bố trí dọc
khu vực đường Hàng Xanh.
Khoảng
10:00 giờ tổng thống
Dương Văn Minh cho lệnh buông súng.
Tiểu
Đoàn 12 ND họp các ĐĐT để cho họ
biết tin này và sau đó để họ tùy nghi. Thiếu
tá Nhi đă ngậm ngùi vứt hộp bấm ng̣i nổ
của khối thuốc nổ cỡ 2000kg TNT gài tại cần Tân Cảng
xuống sông Sài G̣n .
Tôi c̣n
nhớ ngày 28 tháng 4 năm 1975, vào buổi sáng, tôi
đang dạy một lớp 12 của trường
Saint-Thomas, ở Phú Nhuận, nh́n lên bầu trời
qua cửa sổ lớp học tôi thấy từng
đoàn trực thăng bay ngang thật thấp:
người Mỹ đang di tản khỏi Việt
Nam. Tôi tự hỏi rồi ḿnh sẽ ra sao?
Lúc ở pḥng giáo sư, Cha hiệu trưởng nói
với tôi: sắp có giải pháp, thầy cứ yên chí
ḿnh sẽ tiếp tục dạy học như
thường. Sự lạc quan của Cha hiệu
trưởng không đủ sức trấn tỉnh tôi
trước một tương lai ḿnh không đoán
được!
Trong
những đêm cuối tháng 4 năm 1975, tôi thường
trực đêm trong trung tâm giáo dục Hồng Bàng với
các ban đồng nghiệp. Chúng tôi uống bia
và đánh xập xám chướng để quên đi
những lo âu về t́nh h́nh đất nước trong cái
pḥng tiếp tân gần cổng ra vào. Thỉnh thoảng
tiếng đạn VC pháo kích vào thủ đô kéo chúng tôi
về với thực tại đen tối. Anh lao công gác cổng thường chạy ra,
chạy vô mua thuốc lá hay bia cho chúng tôi. Thế mà t́nh
đời thay đổi mau chóng. Chỉ vài ngày sau 30/4/75,
khi trường bi tiếp quản, các giáo sư chúng tôi bị
giáng cấp thành giáo viên, anh Lâm Vơ Huỳnh không c̣n là giám
đốc trung tâm th́ có một đêm tôi vào trực,
gọi cổng nhiều lần để vào trường,
rất lâu sau anh lao công, lúc này được gọi là
bảo vệ, mới chạy ra mở cửa và nạt
nộ tôi nói tại sao tôi gọi lớn quá làm đánh
thức cả nhà anh dậy. Tôi chợt nhận ra bây
giờ đă “đổi đời” rồi!
Viết nhân mùa Quốc
Hận thứ 49
Huỳnh Công Ân
Tài
liệu tham khảo:
-MẶT
TRẬN BAN MÊ THUỘT
https://quanlucvnchblog.wordpress.com/mat-tran-ban-me-thuot/
-Mặt
Trận Khánh Dương
Từ
19/3/1975 đến 2/4/1975
http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/TranKhanhDuongQuanKhu2.htm
-THÁNG
3-1975 TUYẾN ĐẦU THẤT THỦ
-Mặt
Trận Phan Rang
https://quanlucvnchblog.wordpress.com/mat-tran-phan-rang/
-MẶT
TRẬN XUÂN LỘC - (4-1975)
Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng
của một quân đội bị phản bội
http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/Mat%20Tran%20Xuan%20Loc.htm